Phân tích đơn điều tra chống bán phá giá đối với sản phẩm ván ép gỗ cứng nhập khẩu từ Trung Quốc vào EU

Trong tháng 10/2024, Ủy ban Châu Âu (sau đây gọi tắt là 'Ủy ban') thông báo đã nhận được đơn yêu cầu điều tra áp dụng biện pháp phòng vệ thương mại (PVTM) đối với ván ép gỗ cứng (hardwood plywood) nhập khẩu từ Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa (Trung Quốc)

Căn cứ pháp lý: theo Điều 11(3) Quy định (EU) 2016/1036 của Nghị viện Châu Âu và Hội đồng châu Âu ngày 8 tháng 6 năm 2016 đối với hàng nhập khẩu bán phá giá từ các quốc gia không phải là thành viên của Liên minh Châu Âu ('sau đây gọi tắt là Quy định cơ bản'-Basic Regulation).

Bài viết này tiến hành phân tích đơn yêu cầu điều tra và quy trình xử lý như sau:

1. Đơn yêu cầu điều tra

Đơn yêu cầu điều tra (Khiếu nại) được nộp vào ngày 27 tháng 8 năm 2024 bởi Greenwood Consortium (‘bên khiếu nại/bên yêu cầu điều tra’).

 Đơn yêu cầu điều tra được nộp đại diện cho ngành công nghiệp ván ép gỗ cứng của EU theo nghĩa của Điều 5(4) của Quy định cơ bản ([1]).

2. Phạm vi hàng hóa trong đơn yêu cầu điều tra

Sản phẩm bị cáo buộc bán phá giá là sản phẩm đang được điều tra, có nguồn gốc từ Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa ('quốc gia liên quan'), hiện được phân loại theo mã HS ex 4412 31, ex 4412 33 và ex 4412 34 (mã CN và TARIC là 4412 31 10 80, 4412 31 90 00, 4412 33 10 12, 4412 33 10 22, 4412 33 10 82, 4412 33 20 10, 4412 33 30 10, 4412 33 90 10 và 4412 34 00 10).

Sản phẩm thuộc diện điều tra này chỉ là ván ép bao gồm các tấm gỗ khác ngoài tre và okoumé, mỗi lớp có độ dày không quá 6 mm, với ít nhất một lớp ngoài bằng gỗ nhiệt đới hoặc gỗ không phải gỗ lá kim, thuộc các loài được chỉ định trong các phân nhóm 4412 31, 4412 33 và 4412 34, có tráng phủ hoặc phủ bề mặt hay không (sau đây gọi tắt là 'sản phẩm đang được điều tra').

Mã CN và TARIC chỉ được đưa ra để cung cấp thông tin thuận tiện cho các bên liên quan mà không ảnh hưởng đến những thay đổi (nếu có) trong phân loại thuế quan theo mã HS.

4. Căn cứ để xem xét:

Cáo buộc bán phá giá:

Bên khiếu nại cho rằng không phù hợp khi sử dụng giá cả và chi phí trong nước tại Trung Quốc, do có sự bóp méo đáng kể theo định nghĩa của điểm (b) Điều 2(6a) của Quy định cơ bản. Để chứng minh cho các cáo buộc về sự bóp méo đáng kể, người khiếu nại đã dựa vào thông tin có trong Tài liệu làm việc của Ủy ban về Sự bóp méo đáng kể trong Nền kinh tế của Trung Quốc cho Mục đích Điều tra Phòng vệ Thương mại ngày 10 tháng 4 năm 2024 ([2]).

 Đặc biệt, bên khiếu nại cho rằng việc sản xuất và bán sản phẩm đang bị điều tra dường như bị ảnh hưởng bởi những sự bóp méo đã đề cập, trong số những điều khác, trong các chương về đất đai, năng lượng, vốn, nguyên liệu thô, lao động, cũng như bởi những sự bóp méo ảnh hưởng cụ thể đến ngành công nghiệp gỗ.

Ngoài ra, người khiếu nại đã dựa vào thông tin có sẵn công khai, đặc biệt là về Kế hoạch 5 năm lần thứ 14 về Phát triển Ngành Lâm nghiệp và Đồng cỏ (2021-2025), Báo cáo quốc gia của FAO_Trung Quốc (2020), 'Nghiên cứu thực trạng ngành gỗ dán tại Trung Quốc'([3]) và Ý kiến ​​chỉ đạo của Tổng cục Lâm nghiệp và Đồng cỏ về việc thúc đẩy Phát triển Chất lượng cao của Ngành Lâm nghiệp và Đồng cỏ ([4]).

Trong thực tế, ván ép gỗ cứng thường được làm từ cây gỗ bạch đàn, sồi, phong, cao su… Đây là những vật liệu có độ bền và độ cứng vượt trội, thích hợp với các ứng dụng có khả năng chịu lực cao và độ bền dài lâu. Với đặc tính cơ học ưu việt nên thường sử dụng trong các công trình xây dựng và sản xuất nội thất yêu cầu sự chắc chắn. Bề mặt ván ép plywood gỗ cứng có ưu điểm mịn màng và ít khuyết điểm, có giá trị thẩm mỹ cao, dễ dàng sơn phủ để mang đến các sản phẩm nội thất đẹp mắt và chất lượng. 

Trọng lượng của ván ép gỗ cứng nặng hơn so với gỗ mềm, nên chắc chắn và ổn định cao, nhưng cũng làm cho việc vận chuyển và lắp đặt trở nên khó khăn hơn. Nhưng với khả năng chống ẩm tốt, ván gỗ cứng có thể sử dụng trong nhiều điều kiện môi trường khác nhau, gồm cả những nơi có độ ẩm cao. Giá thành của gỗ cứng cao hơn, do chất lượng của sản phẩm, phù hợp với các dự án yêu cầu độ hoàn thiện cao và sử dụng lâu dài. 

Tại EU, ván ép gỗ cứng thường ứng dụng trong sản xuất nội thất cao cấp như tủ, bàn, ghế và các sản phẩm trang trí nội thất khác. Ngoài ra, loại ván này còn được sử dụng trong công trình xây dựng cao cấp, làm sàn, vách ngăn và các chi tiết trang trí cần độ bền, độ chính xác cao. 

 Bên yêu cầu điều tra cũng dựa vào bằng chứng bổ sung có sẵn và công khai về sự bóp méo liên quan đến sản phẩm đang bị điều tra và nguyên liệu thô của sản phẩm đó ([5]), cũng như các phát hiện của Hoa Kỳ trong các cuộc điều tra chống bán phá giá và chống trợ cấp đối với gỗ dán cứng([6]) và các phát hiện của EU trong một số cuộc điều tra chống bán phá giá gần đây (tức là các cuộc điều tra về gỗ dán okoumé ([7]) và về vải sợi thủy tinh ([8]).

Do đó, xét theo Điều 2(6a)(a) của Quy định cơ bản, cáo buộc bán phá giá dựa trên sự so sánh giá trị thông thường được xây dựng trên cơ sở chi phí sản xuất và bán hàng phản ánh giá cả hoặc chuẩn mực không bị bóp méo, với giá xuất khẩu (ở mức xuất xưởng) của sản phẩm đang được điều tra khi được bán để xuất khẩu sang Liên minh châu Âu.

Bên gửi đơn yêu cầu điều tra cho rằng Thổ Nhĩ Kỳ (Türkiye) là quốc gia đại diện phù hợp cho mục đích xây dựng giá trị thông thường. Biên độ bán phá giá được tính toán trên cơ sở so sánh này là đáng kể đối với quốc gia liên quan.

Dựa trên thông tin có sẵn, Ủy ban cho rằng có đủ bằng chứng theo Điều 5(9) của Quy định cơ bản cho thấy rằng, do những “bóp méo đáng kể” ảnh hưởng đến giá cả và chi phí, việc sử dụng giá cả và chi phí trong nước tại Trung Quốc là không phù hợp, và do đó bảo đảm việc khởi xướng một cuộc điều tra trên cơ sở Điều 2(6a) của Quy định cơ bản.

Cáo buộc về tổn thất và nguyên nhân

Người khiếu nại đã cung cấp bằng chứng cho thấy lượng hàng nhập khẩu của sản phẩm đang bị điều tra từ quốc gia liên quan đã tăng lên về tổng thể theo giá trị tuyệt đối và theo giá trị thị trường.

Bằng chứng do người khiếu nại cung cấp cho thấy khối lượng và giá cả của sản phẩm nhập khẩu đang bị điều tra đã gây ra, trong số những hậu quả khác, tác động tiêu cực đến số lượng bán ra và mức giá mà ngành công nghiệp này tại EU áp dụng, dẫn đến những tác động tiêu cực đáng kể đến hiệu suất chung và tình hình tài chính của ngành công nghiệp ván ép gỗ cứng của EU.

Các nhà sản xuất ván ép trong nước của EU không thể tăng sản lượng. Dữ liệu từ Liên đoàn Tấm gỗ Châu Âu (European Panels Federation) cho thấy tổng sản lượng gỗ ván (plywood) của EU đã giảm 2,5% từ 3,2 triệu m3 vào năm 2021 xuống 3,1 triệu m3 vào năm 2022 và sau đó giảm thêm 15% xuống chỉ còn 2,6 triệu m3 vào năm 2023. Trên thực tế, mức sản xuất của EU năm ngoái thấp chưa từng có, là mức thấp nhất từng được ghi nhận và chỉ bằng khoảng một nửa sản lượng gần 5 triệu mét khối mỗi năm trước đại dịch COVID-19.

Cáo buộc về sự bóp méo đối với giá thành nguyên liệu thô

Người khiếu nại đã cung cấp đủ bằng chứng cho thấy có thể có sự bóp méo về giá thành nguyên liệu thô tại Trung Quốc liên quan đến sản phẩm đang bị điều tra. Theo bằng chứng trong khiếu nại, nguyên liệu thô từ gỗ, đặc biệt là gỗ tròn để sản xuất ván ép gỗ cứng, chiếm ít nhất 17% chi phí sản xuất sản phẩm đang bị điều tra. Trên cơ sở so sánh giá cả tại các thị trường quốc tế tiêu biểu, đặc biệt là số liệu thống kê của Thổ Nhĩ Kỳ, với giá cả tại quốc gia liên quan, khiếu nại xác định rằng sự bóp méo nguyên liệu thô dường như dẫn đến giá thành tại Trung Quốc thấp hơn đáng kể so với giá tại các thị trường quốc tế tiêu biểu.

Tại Thổ Nhĩ Kỳ, nguyên liệu thô chính cho thị trường bao gồm gỗ tròn và gỗ xẻ. Những nguyên liệu này có nguồn gốc trong nước và được nhập khẩu từ nhiều quốc gia khác nhau, tùy thuộc vào tính sẵn có và chất lượng của chúng. Việc sử dụng các nguồn tài nguyên bền vững và tái tạo là xu hướng ngày càng tăng, với trọng tâm là giảm tác động môi trường của sản xuất gỗ.

Ngành sản xuất gỗ phụ thuộc rất nhiều vào máy móc tiên tiến để chế biến nguyên liệu thô thành sản phẩm hoàn thiện, bao gồm xưởng cưa gỗ xẻ, dây chuyền sản xuất gỗ dán và dây chuyền sản xuất gỗ kỹ thuật cho các sản phẩm gỗ kỹ thuật. Việc tính toán không đẩy đủ các yếu tố cấu thành giá sản phẩm cũng có thể dẫn đến việc sản phẩm được bán tại thị trường xuất khẩu thấp hơn so với giá thành thực tế tại nội địa.

Do đó, theo Điều 7(2a) của Quy định cơ bản, cuộc điều tra sẽ xem xét các sự bóp méo như bên yêu cầu điều tra cáo buộc để đánh giá xem liệu mức thuế thấp hơn biên độ bán phá giá có đủ để loại bỏ thiệt hại do nhóm hàng nhập khẩu được bán phá giá này gây ra cho EU hay không. Trong quá trình điều tra, nếu phát hiện những sai lệch khác được quy định tại Điều 7(2a) của Quy định cơ bản, cuộc điều tra cũng có thể tính đến những sai lệch này.

Sau khi xác định và thông báo cho các Quốc gia thành viên, rằng đơn khiếu nại đã được ngành công nghiệp này tại EU nộp và có đủ bằng chứng để biện minh cho việc khởi xướng một thủ tục, Ủy ban thông báo khởi xướng một cuộc điều tra theo Điều 5 của Quy định cơ bản.

5. Các thủ tục tiếp theo:

Cuộc điều tra sẽ xác định xem sản phẩm đang được điều tra có xuất xứ từ Trung Quốc có bị bán phá giá hay không và liệu hàng nhập khẩu bị bán phá giá có gây thiệt hại cho ngành công nghiệp của EU hay không.

Nếu kết luận là khẳng định, cuộc điều tra sẽ xem xét liệu việc áp dụng các biện pháp có vì lợi ích của Liên minh theo Điều 21 của Quy định cơ bản hay không. Để xác định xem Điều 7(2a) có áp dụng hay không, cuộc điều tra cũng sẽ xem xét bài kiểm tra lợi ích của Liên minh theo Điều 7(2b) của Quy định cơ bản.

 

5.1. Giai đoạn điều tra rà soát

Cuộc điều tra về bán phá giá và thiệt hại sẽ bao gồm giai đoạn từ ngày 1 tháng 7 năm 2023 đến ngày 30 tháng 6 năm 2024 (‘giai đoạn điều tra’). Việc xem xét các xu hướng có liên quan đến việc đánh giá thiệt hại sẽ bao gồm giai đoạn từ ngày 1 tháng 1 năm 2021 đến khi kết thúc giai đoạn điều tra (‘giai đoạn được xem xét’).

5.2. Bình luận về yêu cầu và việc khởi xướng cuộc điều tra

Tất cả các bên quan tâm muốn bình luận về khiếu nại (bao gồm các vấn đề liên quan đến thương tích và nguyên nhân) hoặc bất kỳ khía cạnh nào liên quan đến việc bắt đầu điều tra (bao gồm mức độ hỗ trợ cho khiếu nại) phải thực hiện trong vòng 37 ngày kể từ ngày công bố Thông báo này.

5.3. Thủ tục xác định bán phá giá

Các nhà sản xuất xuất khẩu sản phẩm đang được điều tra từ quốc gia liên quan (Trung Quốc), bao gồm cả những nhà sản xuất không hợp tác trong cuộc điều tra dẫn đến các biện pháp có hiệu lực, đều được mời tham gia cuộc điều tra của Ủy ban.

Nhà sản xuất xuất khẩu là bất kỳ công ty nào trong quốc gia có liên quan sản xuất và xuất khẩu sản phẩm đang bị điều tra vào thị trường Liên minh, trực tiếp hoặc thông qua bên thứ ba, bao gồm bất kỳ công ty liên quan nào tham gia vào quá trình sản xuất, bán trong nước hoặc xuất khẩu sản phẩm đang bị điều tra.

5.3.1. Điều tra các nhà sản xuất xuất khẩu tại Trung Quốc

a) Thủ tục lấy mẫu và một số lưu ý

Do có một số lượng lớn các nhà sản xuất xuất khẩu tại Trung Quốc tham gia vào quá trình này và để hoàn tất cuộc điều tra trong thời hạn theo luật định, Ủy ban có thể giới hạn số lượng nhà sản xuất xuất khẩu bị điều tra ở mức hợp lý bằng cách chọn một mẫu (quy trình này cũng được gọi là 'lấy mẫu'). Việc lấy mẫu sẽ được thực hiện theo Điều 17 của Quy định cơ bản.

Để Ủy ban có thể quyết định xem việc lấy mẫu có cần thiết hay không và nếu cần, để chọn một mẫu, tất cả các nhà sản xuất xuất khẩu hoặc đại diện hành động thay mặt họ, bao gồm cả những người không hợp tác trong cuộc điều tra dẫn đến các biện pháp thuộc đối tượng của đợt đánh giá hiện tại, được yêu cầu cung cấp cho Ủy ban thông tin về các công ty của họ trong vòng 7 ngày kể từ ngày công bố Thông báo này. Thông tin này phải được cung cấp qua TRON.tdi theo địa chỉ sau: https://tron.trade.ec.europa.eu/tron/tdi/form/R825_SAMPLING_FORM_FOR_EXPORTING_PRODUCER.

Các nhà sản xuất xuất khẩu tại Trung Quốc sẽ được yêu cầu cung cấp thông tin chi tiết về các hoạt động chính xác của công ty và tất cả các công ty liên quan (liệt kê và nêu rõ mối quan hệ với công ty) tham gia vào việc sản xuất và/hoặc bán (xuất khẩu và/hoặc trong nước) sản phẩm đang được điều tra. Các hoạt động như vậy có thể bao gồm nhưng không giới hạn ở việc sản xuất các đầu vào thượng nguồn được sử dụng trong quá trình sản xuất sản phẩm, mua sản phẩm đang được điều tra hoặc sản xuất sản phẩm theo các thỏa thuận thầu phụ, hoặc chế biến hoặc kinh doanh sản phẩm đang được điều tra. Họ cũng sẽ phải cung cấp thông tin chi tiết về loại mối quan hệ có liên quan.

Để có được thông tin cần thiết cho việc lựa chọn mẫu các nhà sản xuất xuất khẩu, Ủy ban cũng sẽ liên hệ với các cơ quan chức năng của quốc gia liên quan và có thể liên hệ với bất kỳ hiệp hội nhà sản xuất xuất khẩu nào đã biết tại quốc gia đó. Nếu cần, các nhà sản xuất xuất khẩu sẽ được lựa chọn dựa trên khối lượng sản xuất, doanh số hoặc xuất khẩu đại diện lớn nhất, có thể được điều tra hợp lý trong thời gian có thể. Tất cả các nhà sản xuất xuất khẩu, các cơ quan chức năng của quốc gia liên quan và các hiệp hội nhà sản xuất xuất khẩu sẽ được Ủy ban thông báo, thông qua các cơ quan chức năng tại nước họ, nếu phù hợp, về các doanh nghiệp được chọn để đưa vào mẫu.

Sau khi Ủy ban nhận được thông tin cần thiết để lựa chọn mẫu các nhà sản xuất xuất khẩu, Ủy ban sẽ thông báo cho các bên liên quan về quyết định của mình. Các nhà sản xuất xuất khẩu được lấy mẫu sẽ phải nộp bảng câu hỏi đã hoàn thành trong vòng 30 ngày kể từ ngày thông báo về quyết định đưa họ vào mẫu, trừ khi có quy định khác.

Ủy ban sẽ thêm một ghi chú vào hồ sơ để các bên quan tâm kiểm tra và phản ánh việc lựa chọn mẫu. Bất kỳ bình luận nào về việc lựa chọn mẫu phải được nhận trong vòng 3 ngày kể từ ngày thông báo về quyết định lấy mẫu.

b) Biên độ bán phá giá riêng lẻ đối với các nhà sản xuất xuất khẩu không được đưa vào mẫu

Không ảnh hưởng đến khả năng áp dụng Điều 18 của Quy định cơ bản, các doanh nghiệp đã đồng ý tham gia vào mẫu điều tra nhưng không được Ủy ban chọn sẽ vẫn được coi là có hợp tác.

Theo Điều 17(3) của Quy định cơ bản, các nhà sản xuất xuất khẩu hợp tác nhưng không được đưa vào mẫu có thể yêu cầu Ủy ban thiết lập biên độ bán phá giá riêng lẻ của họ. Các nhà sản xuất xuất khẩu muốn yêu cầu biên độ bán phá giá riêng lẻ phải điền vào bảng câu hỏi và gửi lại bảng câu hỏi đã hoàn thành đầy đủ trong vòng 30 ngày kể từ ngày thông báo về việc lựa chọn mẫu, trừ khi có quy định khác.

Một bản sao của bảng câu hỏi dành cho các nhà sản xuất xuất khẩu có sẵn trong hồ sơ để các bên quan tâm kiểm tra và trên trang web của Tổng cục Thương mại https://tron.trade.ec.europa.eu/investigations/case-view? caseId=2753. Ủy ban sẽ xem xét liệu các nhà sản xuất xuất khẩu hợp tác không được lấy mẫu có thể được cấp thuế riêng lẻ theo Điều 9(5) của Quy định cơ bản hay không.

Tuy nhiên, các nhà sản xuất xuất khẩu hợp tác không được lấy mẫu yêu cầu biên độ bán phá giá riêng lẻ nên biết rằng Ủy ban vẫn có thể quyết định không xác định biên độ bán phá giá riêng lẻ của họ nếu, chẳng hạn, số lượng nhà sản xuất xuất khẩu hợp tác, bao gồm cả những nhà sản xuất được lấy mẫu, cần được điều tra quá lớn đến mức việc xác định như vậy sẽ gây gánh nặng không đáng có và sẽ ngăn cản việc hoàn thành kịp thời cuộc điều tra.

 

5.3.2. Thủ tục bổ sung liên quan đến hành vi “bóp méo” thị trường đáng kể tại quốc gia liên quan

Theo các điều khoản của Thông báo này, tất cả các bên quan tâm được mời nêu quan điểm của mình, gửi thông tin và cung cấp bằng chứng hỗ trợ liên quan đến việc áp dụng Điều 2(6a) của Quy định cơ bản. Trừ khi có quy định khác, thông tin này và bằng chứng hỗ trợ phải đến được Ủy ban trong vòng 37 ngày kể từ ngày công bố Thông báo này.

Đặc biệt, Ủy ban mời tất cả các bên quan tâm nêu quan điểm của mình về các thông tin đầu vào và mã Hệ thống hài hòa (HS) được cung cấp trong khiếu nại, đề xuất (một) quốc gia đại diện thích hợp và cung cấp danh tính của các nhà sản xuất sản phẩm đang bị điều tra tại các quốc gia đó.

Theo điểm (e) của Điều 2(6a) của Quy định cơ bản, ngay sau khi bắt đầu, Ủy ban sẽ thông báo cho các bên tham gia cuộc điều tra về các nguồn có liên quan, bao gồm, khi thích hợp, việc lựa chọn một quốc gia thứ ba đại diện phù hợp mà Ủy ban dự định sử dụng cho mục đích xác định giá trị thông thường theo Điều 2(6a) thông qua một ghi chú vào hồ sơ để các bên quan tâm kiểm tra. Các bên tham gia cuộc điều tra sẽ có 10 ngày để bình luận về ghi chú, theo điểm (e) của Điều 2(6a).

Với mục đích cuối cùng là lựa chọn quốc gia thứ ba đại diện phù hợp, Ủy ban sẽ xem xét liệu các quốc gia thứ ba đó có trình độ phát triển kinh tế tương tự như quốc gia liên quan hay không, liệu có hoạt động sản xuất và bán sản phẩm đang được điều tra tại các quốc gia thứ ba đó hay không và liệu dữ liệu có liên quan có sẵn hay không.

 Trong trường hợp có nhiều hơn một quốc gia thứ ba đại diện, Ủy ban sẽ ưu tiên, khi thích hợp, cho các quốc gia có mức độ bảo vệ xã hội và môi trường đầy đủ. Theo thông tin mà Ủy ban có được, một quốc gia thứ ba đại diện phù hợp có thể là Thổ Nhĩ Kỳ.

Các nhà sản xuất tại Trung Quốc cung cấp thông tin về vật liệu (thô và đã qua chế biến) và năng lượng được sử dụng trong quá trình sản xuất sản phẩm đang được điều tra trong vòng 15 ngày kể từ ngày công bố Thông báo này. Thông tin này phải được cung cấp qua TRON.tdi theo địa chỉ sau: https:// tron.trade.ec.europa.eu/tron/tdi/form/AD717_INFO_ON_INPUTS_FOR_EXPORTING_PRODUCER_FORM.

Ngoài ra, bất kỳ thông tin thực tế nào được gửi để định giá chi phí và giá cả theo điểm (a) của Điều 2(6a) của Quy định cơ bản phải được nộp trong vòng 65 ngày kể từ ngày công bố Thông báo này.

5.3.3. Điều tra các nhà nhập khẩu không liên quan

 

Mục này chỉ bao gồm những người nhập khẩu không liên quan đến nhà sản xuất xuất khẩu. Những người nhập khẩu có liên quan đến nhà sản xuất xuất khẩu phải điền vào Phụ lục I của bảng câu hỏi dành cho những nhà sản xuất xuất khẩu này.

Dữ liệu do các nhà nhập khẩu không liên quan cung cấp cũng có thể được sử dụng liên quan đến các khía cạnh của cuộc điều tra này ngoài việc xác định hành vi bán phá giá.

Các nhà nhập khẩu không liên quan của sản phẩm đang bị điều tra được mời tham gia cuộc điều tra này nhưng do số lượng lớn các nhà nhập khẩu không liên quan tham gia vào quá trình này và để hoàn tất cuộc điều tra trong thời hạn theo luật định, Ủy ban có thể giới hạn ở một số lượng hợp lý các nhà nhập khẩu không liên quan bằng cách chọn mẫu (quy trình này cũng được gọi là 'lấy mẫu'). Việc lấy mẫu sẽ được thực hiện theo Điều 17 của Quy định cơ bản.

Để Ủy ban có thể quyết định xem việc lấy mẫu có cần thiết hay không và nếu cần, để chọn mẫu, tất cả các nhà nhập khẩu không liên quan hoặc đại diện hành động thay mặt cho họ được yêu cầu cung cấp cho Ủy ban thông tin về công ty của họ theo yêu cầu.

Ủy ban cũng có thể liên hệ với bất kỳ hiệp hội nhà nhập khẩu nào đã biết. Nếu cần các nhà nhập khẩu có thể được lựa chọn dựa trên khối lượng bán hàng đại diện lớn nhất của sản phẩm đang được điều tra tại EU có thể được điều tra hợp lý trong thời gian có sẵn.

Sau khi nhận được thông tin cần thiết để lựa chọn mẫu, Ủy ban sẽ thông báo cho các bên liên quan về quyết định của mình đối với mẫu của các nhà nhập khẩu. Ủy ban cũng sẽ thêm một ghi chú phản ánh việc lựa chọn mẫu vào hồ sơ để các bên quan tâm kiểm tra. Bất kỳ bình luận nào về việc lựa chọn mẫu phải được nhận trong vòng 3 ngày kể từ ngày thông báo về quyết định mẫu.

Để có được thông tin mà Ủy ban cho là cần thiết cho cuộc điều tra của mình, Ủy ban sẽ cung cấp các bảng câu hỏi cho các nhà nhập khẩu không liên quan được lấy mẫu. Các bên đó phải nộp một bảng câu hỏi đã hoàn thành trong vòng 30 ngày kể từ ngày thông báo về quyết định về mẫu, trừ khi có quy định khác.

5.4. Thủ tục xác định thiệt hại và điều tra các nhà sản xuất EU

Việc xác định thiệt hại dựa trên bằng chứng và bao gồm việc kiểm tra khách quan khối lượng hàng nhập khẩu bị bán phá giá, tác động đến giá cả trên thị trường EU và tác động tiếp theo của những hàng nhập khẩu đó đối với ngành công nghiệp EU. Để xác định xem ngành công nghiệp EU có bị thiệt hại hay không, các nhà sản xuất tại EU được mời tham gia vào cuộc điều tra của Ủy ban.

Do số lượng lớn các nhà sản xuất EU có liên quan và để hoàn tất cuộc điều tra trong thời hạn theo luật định, Ủy ban đã quyết định giới hạn ở một số lượng hợp lý các nhà sản xuất EU sẽ bị điều tra bằng cách chọn mẫu (quy trình này cũng được gọi là 'lấy mẫu'). Việc lấy mẫu được thực hiện theo Điều 17 của Quy định cơ bản.

Ủy ban đã tạm thời chọn một mẫu các nhà sản xuất của EU. Các bên quan tâm có thể tìm thấy thông tin chi tiết trong hồ sơ; đồng thời cũng được mời bình luận về mẫu tạm thời. Ngoài ra, các nhà sản xuất EU khác hoặc đại diện hành động thay mặt cho họ, những người cho rằng có lý do để được đưa vào mẫu này phải liên hệ với Ủy ban trong vòng 7 ngày kể từ ngày công bố Thông báo này. Tất cả các bình luận liên quan đến mẫu tạm thời phải được nhận trong vòng 7 ngày kể từ ngày công bố Thông báo này, trừ khi có quy định khác. Ủy ban sẽ thông báo cho tất cả các nhà sản xuất EU và hiệp hội của các nhà sản xuất này về các doanh nghiệp cuối cùng được chọn để đưa vào mẫu. Các nhà sản xuất EU được lấy mẫu sẽ phải nộp một bảng câu hỏi đã hoàn thành trong vòng 30 ngày kể từ ngày thông báo về quyết định đưa họ vào mẫu, trừ khi có quy định khác.

Bản sao của bảng câu hỏi dành cho các nhà sản xuất EU được đăng tải trong hồ sơ để các bên quan tâm kiểm tra trên trang web của DG Trade (https://tron.trade.ec.europa.eu/investigations/case-view?caseId=2749).

5.5. Thủ tục đánh giá lợi ích của EU trong trường hợp có cáo buộc về sự bóp méo nguyên liệu thô

Trong trường hợp có sự bóp méo nguyên liệu thô như được xác định trong Điều 7(2a) của Quy định cơ bản, Ủy ban sẽ tiến hành kiểm tra lợi ích của EU theo quy định tại Điều 7(2b) của Quy định đó.

Các bên quan tâm được mời cung cấp mọi thông tin có liên quan cho phép Ủy ban xác định liệu có vì lợi ích của EU khi thiết lập mức độ biện pháp theo Điều 7(2a) của Quy định cơ bản hay không. Đặc biệt, các bên quan tâm được mời cung cấp mọi thông tin về năng lực dự trữ tại Trung Quốc, sự cạnh tranh về nguyên liệu thô và tác động đến chuỗi cung ứng liên quan đến sản phẩm ván ép gỗ cứng của các công ty trong EU. Trong trường hợp không có sự hợp tác, Ủy ban có thể kết luận rằng việc áp dụng Điều 7(2a) của Quy định cơ bản là phù hợp với lợi ích của EU.

Trong mọi trường hợp, một quyết định sẽ được đưa ra, theo Điều 21 của Quy định cơ bản, về việc liệu việc áp dụng các biện pháp chống bán phá giá có vì lợi ích của EU hay không. Các nhà sản xuất, nhà nhập khẩu của Liên minh và các hiệp hội đại diện của họ, người dùng và các hiệp hội đại diện của họ, các công đoàn và các tổ chức đại diện cho người tiêu dùng được mời cung cấp cho Ủy ban thông tin liên quan đến lợi ích của EU.

Thông tin liên quan đến việc đánh giá lợi ích của Liên minh phải được cung cấp trong vòng 37 ngày kể từ ngày công bố Thông báo này trừ khi có quy định khác. Thông tin này có thể được cung cấp theo định dạng miễn phí hoặc bằng cách hoàn thành bảng câu hỏi do Ủy ban chuẩn bị. Một bản sao của các bảng câu hỏi, bao gồm bảng câu hỏi dành cho người dùng sản phẩm đang được điều tra, có sẵn trong hồ sơ để các bên quan tâm kiểm tra và trên trang web của DG Trade https:// tron.trade.ec.europa.eu/investigations/case-view?caseId=2753. Thông tin được gửi theo Điều 21 của Quy định cơ bản sẽ chỉ được xem xét nếu được hỗ trợ bởi bằng chứng thực tế tại thời điểm gửi.

5.6. Các bên liên quan

Theo Điều 127 của Quy định thực hiện của Ủy ban (EU) 2015/2447 ngày 24 tháng 11 năm 2015 đặt ra các quy tắc chi tiết để thực hiện một số điều khoản của Quy định (EU) số 952/2013 của Nghị viện châu Âu và Hội đồng đặt ra Bộ luật hải quan Liên minh, hai người sẽ được coi là có liên quan nếu:

(a)  là cán bộ hoặc giám đốc của doanh nghiệp của người kia;

(b)  là đối tác được công nhận hợp pháp trong kinh doanh;

(c)  là người sử dụng lao động và người lao động;

(d) một bên thứ ba trực tiếp hoặc gián tiếp sở hữu, kiểm soát hoặc nắm giữ 5% hoặc nhiều hơn cổ phiếu có quyền biểu quyết đang lưu hành hoặc cổ phần của cả hai bên;

(e) một trong số họ trực tiếp hoặc gián tiếp kiểm soát bên kia;

(f) cả hai đều được một bên thứ ba kiểm soát trực tiếp hoặc gián tiếp;

(g)  cùng nhau kiểm soát một bên thứ ba trực tiếp hoặc gián tiếp; hoặc

(h)  là thành viên của cùng một gia đình (OJ L 343, 29.12.2015, tr. 558).

Theo Điều 5(4) của Quy định (EU) số 952/2013 của Nghị viện Châu Âu và Hội đồng ban hành Bộ luật Hải quan Liên minh, ''người'' có nghĩa là một cá nhân, một pháp nhân và bất kỳ hiệp hội nào của những người không phải là pháp nhân.

Để tham gia vào cuộc điều tra, các bên liên quan, chẳng hạn như nhà sản xuất xuất khẩu tại Trung Quốc, nhà sản xuất tại EU, nhà nhập khẩu và các hiệp hội đại diện của họ, người tiêu dùng và các hiệp hội đại diện của họ, các công đoàn và các tổ chức đại diện cho người tiêu dùng phải chứng minh rằng có mối liên hệ khách quan giữa các hoạt động của họ và sản phẩm đang được điều tra.

Các nhà sản xuất xuất khẩu, nhà sản xuất Liên minh, nhà nhập khẩu và các hiệp hội đại diện đã cung cấp thông tin theo các thủ tục theo quy định sẽ được coi là các bên liên quan nếu có mối liên hệ khách quan giữa các hoạt động của họ và sản phẩm đang được điều tra.

Các bên khác sẽ chỉ có thể tham gia vào cuộc điều tra với tư cách là bên liên quan kể từ thời điểm họ tự giới thiệu và với điều kiện là có mối liên hệ khách quan giữa các hoạt động của họ và sản phẩm đang được điều tra. Việc được coi là bên liên quan không ảnh hưởng đến việc áp dụng Điều 18 của Quy định cơ bản.

5.7. Trường hợp không hợp tác

Trong trường hợp bất kỳ bên quan tâm nào từ chối tiếp cận hoặc không cung cấp thông tin cần thiết trong thời hạn quy định, hoặc cản trở đáng kể việc điều tra, thì có thể đưa ra kết luận tạm thời hoặc kết luận cuối cùng, khẳng định hoặc phủ định, dựa trên các sự kiện có sẵn, theo Điều 18 của Quy định cơ bản.

Khi phát hiện ra rằng bất kỳ bên quan tâm nào đã cung cấp thông tin sai lệch hoặc gây hiểu lầm, thì thông tin đó có thể bị bỏ qua hoặc được xử lý theo tình huống cụ thể.

Nếu một bên quan tâm không hợp tác hoặc chỉ hợp tác một phần và do đó, các phát hiện dựa trên các sự kiện có sẵn theo Điều 18 của Quy định cơ bản, thì kết quả có thể kém thuận lợi hơn cho bên đó so với khi bên đó đã hợp tác.

Tuy nhiên, cần lưu ý ngoại lệ là nếu bên quan tâm chứng minh được rằng việc không thể phản hồi bằng văn bản điện tử là do bất khả kháng hoặc sẽ dẫn đến gánh nặng hoặc chi phí bổ sung không hợp lý thì sẽ không bị coi là “không hợp tác”. Trong trường hợp này, bên quan tâm phải liên hệ ngay với Ủy ban để có hình thức hợp tác phù hợp.

 

[1] https://eur-lex.europa.eu/eli/reg/2016/1036/oj

[2] Báo cáo quốc gia cập nhật cũng có sẵn trong hồ sơ để các bên quan tâm kiểm tra; Tài liệu làm việc của Ủy ban, về những biến dạng đáng kể trong nền kinh tế của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa cho mục đích điều tra phòng vệ thương mại, ngày 10 tháng 4 năm 2024, SWD

[3] Một nghiên cứu được thực hiện bởi Viện nghiên cứu chính sách và thông tin lâm nghiệp, Viện Lâm nghiệp Trung Quốc, Bắc Kinh, Trung Quốc

[4] Trang web của Cục Lâm nghiệp và Đồng cỏ, ‘Ý kiến ​​chỉ đạo của Cục Lâm nghiệp và Đồng cỏ về việc thúc đẩy phát triển chất lượng cao của ngành Lâm nghiệp và Đồng cỏ’, 2019

[5]  ‘Bộ Thương mại, Thông báo số 40 năm 2022, ngày 30 tháng 12 năm 2022. MOFCOM 2023 Quản lý danh mục hàng hóa và giấy phép xuất khẩu (mofcom.gov.cn)

[6] Cơ quan quản lý thương mại quốc tế Hoa Kỳ, Một số sản phẩm gỗ dán cứng từ Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa: Lệnh thuế chống trợ cấp, 83 FR 513, ngày 4 tháng 1 năm 2018, có tại đây Cơ quan quản lý thương mại quốc tế Hoa Kỳ, Một số sản phẩm gỗ dán cứng từ Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa: Khởi xướng thuế chống bán phá giá và Đánh giá tình huống thay đổi thuế chống trợ cấp, 86 FR 8766, ngày 9 tháng 2 năm 2021, có tại đây Cơ quan quản lý thương mại quốc tế Hoa Kỳ, Quyết định phạm vi cuối cùng và Quyết định cuối cùng khẳng định về việc lách lệnh chống bán phá giá và thuế chống trợ cấp, 88 FR 37014, ngày 25 tháng 5 năm 2023, có tại đây Cơ quan quản lý thương mại quốc tế Hoa Kỳ, Biên bản ghi nhớ quyết định về Quyết định khẳng định sơ bộ: Điều tra thuế chống trợ cấp đối với một số sản phẩm gỗ dán cứng từ Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, ngày 17/4/2017.

[7] Quy định thực hiện (EU) 2023/1159 của Ủy ban ngày 13 tháng 6 năm 2023 áp dụng thuế chống bán phá giá chính thức đối với gỗ dán okoumé nhập khẩu có nguồn gốc từ Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa sau khi xem xét hết hạn theo Điều 11(2) của Quy định (EU) 2016/1036 của Nghị viện Châu Âu và Hội đồng (OJ L 153, 14.6.2023, tr. 3).

[8] ) Quy định thực hiện của Ủy ban (EU) 2020/492 ngày 1 tháng 4 năm 2020 áp đặt thuế chống bán phá giá dứt khoát đối với việc nhập khẩu một số loại vải sợi thủy tinh dệt và/hoặc khâu có nguồn gốc từ Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa và Ai Cập

Tin tức khác