Nghiên cứu kết luận sơ bộ về hành vi bán phá giá và trợ cấp – Vụ việc Canada điều tra chống bán phá giá và chống trợ cấp đối với sản phẩm đạm đậu Hà Lan nhập khẩu từ Trung Quốc
I. Quá trình điều tra
Ngày 01 tháng 3 năm 2024, Cơ quan Dịch vụ Biên giới Canada (CBSA ) đã nhận Đơn kiện từ các công ty Nutri-Pea GP (Portage La Prairie, MB) và Roquette Canada (Portage La Prairie, MB) (sau đây gọi là Nguyên đơn) cáo buộc sản phẩm đạm đậu Hà Lan có xuất xứ hoặc nhập khẩu từ Trung Quốc đã nhận trợ cấp từ Chính phủ và bán phá giá vào Canada, gây ra thiệt hại và đe dọa thiệt hại cho các nhà sản xuất nội địa.
Ngày 22 tháng 3 năm 2024, theo đoạn 32(1) Đạo luật về các Biện pháp nhập khẩu đặc biệt (SIMA), CBSA đã thông báo chấp thuận Đơn kiện đầy đủ và hợp lệ. Ngày 02 tháng 4 năm 2024, CBSA thông báo cho Chính phủ Trung Quốc (sau đây là gọi là GOC), đồng thời cung cấp Đơn kiện chống trợ cấp (bản công khai) và mời GOC tham vấn tiền khởi xướng theo quy định tại Điều 13.1 Hiệp định về Trợ cấp và các biện pháp đối kháng (SCMA). Theo quy định của SCMA và thông lệ quốc tế, CBSA không buộc phải tổ chức tham vấn mà tạo cơ hội cho GOC yêu cầu tham vấn. Tuy nhiên, đây là quyền nhưng không phải là nghĩa vụ của GOC. Thực tế, GOC không gửi yêu cầu và tự từ bỏ quyền yêu cầu tham vấn. tham vấn tiền khởi xướng – cơ hội để bình luận về các cáo buộc trong Đơn kiện. Với sự kiện này, Đơn kiện về cơ bản đã được chấp thuận và có đầy đủ các yếu tố để CBSA tiến hành một cuộc điều tra chính thức theo quy định của SIMA và SCMA về nội dung trợ cấp.
Cùng với các bằng chứng ban đầu về hành vi trợ cấp, sau khi xem xét các nội dung cáo buộc, các chứng cứ chứng minh các cáo buộc, ngày 22 tháng 4 năm 2022, CBSA đã chính thức khởi xướng điều tra kép chống bán phá giá (CBPG) và chống trợ cấp (CTC) đối với sản phẩm đạm đậu Hà Lan có xuất xứ hoặc nhập khẩu từ Trung Quốc. Quyết định khởi xướng là sản phẩm của quá trình xem xét cả hình thức và nội dung cáo buộc trong Đơn kiện, bao gồm các cáo buộc và chứng cứ về sự tồn tại của các hành vi bán phá giá, trợ cấp, cũng như các giải trình, biện luận về các dấu hiệu của việc hàng hóa nhận trợ cấp và bán phá giá là nguyên nhân chủ yếu gây ra thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho ngành sản xuất nội địa.
Trên cơ sở đó, Tòa Thương mại quốc tế Canada (CITT) ban hành bản câu hỏi điều tra sơ bộ để xác định thiệt hại theo tiểu mục 34(2) của SIMA, để thu thập thông tin tài liệu của các nhà sản xuất nội địa, nhà nhập khẩu để xác định tình hình, mức độ thiệt hại thông qua thị phần, hoạt động sản xuất, bán hàng nội địa, xuất khẩu, tồn kho, doanh thu lợi nhuận, lao động tiền lương, đầu tư, tác động về giá, tác động về lượng của hàng hóa nhập khẩu đối với hàng hóa tương tự sản xuất nội địa.
Ngày 20 tháng 6 năm 2024, theo quy định tại tiểu mục 37.1(1) của SIMA, CITT công bố Kết luận sơ bộ về thiệt hại, theo đo chỉ ra các yếu tố được xác định rằng có tồn tại thiệt hại cho ngành sản xuất nội địa, mà nguyên nhân chính là từ hàng hóa bán phá giá và nhận trợ cấp của Trung Quốc.
Ngày 22 tháng 7 năm 2022, căn cứ tiểu mục 38(1) của SIMA, CBSA công bố Kết luận sơ bộ về hành vi bán phá giá và trợ cấp, theo đó khẳng định sự tồn tại của các hành vi này trong quá trình nhập khẩu đạm đậu Hà Lan vào Canada. Tiếp đó, căn cứ tiểu mục 8(1) của SIMA, thuế CBPG và CTC tạm thời sẽ được áp dụng với hàng hóa bị áp thuế.
II. Sản phẩm bị điều tra
Pea Protein hay đạm đậu Hà Lan đang hanh chóng trở thành thực phẩm yêu thích của những người tập gym cũng như những người quan tâm đến sức khỏe. Nếu bạn nghĩ rằng đạm đậu Hà Lan với nguồn gốc thực vật chỉ toàn là chất xơ, khó để cung cấp đủ lượng protein để hoạt động mỗi ngày. Đạm từ đậu Hà Lan là nguồn cung cấp protein cao nhất trong nhóm protein từ thực vật.
Không những vậy đậu Hà Lan còn chứa các khoáng chất và vitamin cần thiết cho cơ thể. Ở một khía cạnh khác, protein thực vật chứa nhiều chất dinh dưỡng mà protein động vật không cung cấp đủ cho cơ thể, bạn có thể linh hoạt kết hợp các loại thực phẩm trong bữa ăn để đảm bảo dinh dưỡng phù hợp.
Protein từ đậu Hà Lan có ba dạng, tất cả đều được làm từ hạt đậu tách vỏ màu vàng:
- Pea protein isolate: Đây là một trong hai loại protein đậu Hà Lan phổ biến, Pea protein isolate là một loại bột có protein đậu hàm lượng cao và các axit amin. Dạng này phù hợp với người có nhu cầu điều chỉnh cân nặng, giảm cân và xây dựng cơ bắp vì nó cung cấp nhiều protein hơn trong chế độ ăn uống của bạn.
- Pea protein concentrate: Với dạng này chứa ít protein hơn và có thêm thành phần tinh bột cùng chất béo. Người có nhu cầu tăng cân hoặc thay thế bữa ăn thì Pea protein concentrate là sự lựa chọn phù hợp, bởi khả năng cung cấp calo tốt hơn và giá trị dinh dưỡng không đổi.
- Bột đậu Hà Lan nguyên chất: Được sử dụng để tạo ra các sản phẩm thuần chay thay thế thịt trong bữa ăn hằng ngày.
Trong vụ việc này, mã HS bị điều tra gồm 02 mã 3504.00.90.00 và 2106.10.00.00.
III. Các nội dung chính trong Kết luận điều tra sơ bộ
3.1. Hàng hóa tương tự
CBSA điều tra các thông tin về hàng hóa nhập khẩu và hàng hóa tương tự sản xuất nội địa. Theo đó, các yếu tố lý tính và các yếu tố liên quan khác chỉ ra rằng 02 loại hàng hóa này là cùng loại, có tất cả các đặc tính giống với nhau, có thể thay thế cho nhau trong cùng mục đích sử dụng. Kết luận này trùng khớp với kết luận của CITT trước đó.[1]
3.2. Ngành sản xuất nội địa
Trong vụ việc này, ngành sản xuất nội địa chính là Nguyên đơn, có nghĩa là ngoài Nguyên đơn, không có công ty khác sản xuất sản phẩm này tại Canada. Nguyên đơn đảm bảo tiêu chí thông lệ quốc tế là chiếm trên 50% lượng sản xuất tại Canada. Như vậy, các thông số của ngành sẽ được dựa trên số liệu do Nguyên đơn cung cấp và được các Cơ quan liên quan của Canada thẩm định. Số liệu này có tính đại diện và đủ để bao quát ngành sản xuất nội địa.
Tự do hóa Thương mại Đậu khô Hoa Kỳ-Mexico, như một phần của Hiệp định Thương mại Tự do Bắc Mỹ (NAFTA), đã cho phép các nhà sản xuất đậu khô của Hoa Kỳ xuất khẩu sản phẩm của họ sang các nước Bắc Mỹ khác, hỗ trợ xuất khẩu đậu khô từ Hoa Kỳ sang Mexico và Canada.
Tổng xuất khẩu đậu Hà Lan từ Canada ra thế giới vào năm 2021 là 2,76 triệu tấn, giảm 28,1% so với năm 2020, do sản lượng đậu khô của Canada giảm 50,8% từ năm 2020 đến năm 2021. Giá trung bình dự kiến sẽ là cao hơn nhiều so với giai đoạn 2020-2021 do nguồn cung toàn cầu thấp hơn và lượng hàng tồn kho ở Canada giảm. Thị trường xuất khẩu chính của đậu Hà Lan Canada là các nước Đông Nam Á như Trung Quốc, Nhật Bản, Bangladesh, Sri Lanka, Trung và Nam Mỹ.
Tổng xuất khẩu toàn cầu của Hoa Kỳ năm 2021 là 0,21 triệu tấn, giảm 6,6% so với năm trước. Theo Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ, diện tích gieo trồng đậu Hà Lan khô ở Hoa Kỳ đã giảm 3% trong giai đoạn 2020-2021 xuống còn khoảng dưới 1 triệu mẫu Anh, phần lớn là do tỷ lệ bỏ hoang cao hơn và năng suất thấp hơn ở nước này. Hơn 70% tổng sản lượng đậu khô của Mỹ được xuất khẩu sang Ấn Độ, Trung Quốc và Tây Ban Nha để chế biến thực phẩm và thức ăn chăn nuôi. Hoa Kỳ đứng thứ tám về nhập khẩu đậu Hà Lan toàn cầu.
Ngày 12/12, Công ty An Phú Đà Lạt đã xuất khẩu lô hàng đậu Hà Lan đầu tiên sang Canada. Theo ông Nguyễn Văn Thành, Chủ tịch HĐQT Công ty An Phú Đà Lạt (nguyên Phó chủ tịch Hội Doanh nghiệp trẻ TP.HCM), sau 3 tháng trồng thử nghiệm 2 giống đậu Hà Lan mới (nhập giống từ Đài Loan và Mỹ) tại Đà Lạt, công ty được đối tác Canada kiểm nghiệm đánh giá cao và chấp nhận nhập khẩu.
Ông Trần Văn Việt, Chủ tịch Hội Nông dân tỉnh Lâm Đồng, cho biết mô hình sản xuất đậu Hà Lan công nghệ cao trong nhà kính để xuất khẩu đang mở ra hướng đi mới cho thị trường xuất khẩu rau Đà Lạt.
Được biết giá đậu Hà Lan tại Đà Lạt dao động từ 35.000 - 80.000 đồng/kg (tùy thời điểm); còn tại Canada, Nhật Bản…người tiêu dùng phải mua với giá 12 USD/kg, tương đương khoảng 240.000 đồng/kg.
3.3. Lượng nhập khẩu vào Canada
Đây là yếu tố quan trọng, là khởi đầu của Đơn kiện cũng như là thông số phân tích tác động lượng một cách tương đối hoặc tuyệt đối đối với ngành sản xuất nội địa.
Lượng nhập khẩu Protein từ đậu Hà Lan (01/01/2023 – 31/12/2023)
Nước |
% Tổng lượng nhập khẩu |
Trung Quốc |
62,1% |
Các nước khác |
37,9% |
Tổng |
100% |
3.4. Điều tra CBPG
Giá trị thông thường được xác định dựa trên gia bán hàng nội địa của nước xuất khẩu, theo phương pháp tính được quy định tại mục 15 của SIMA, hoặc dựa trên thay thế bằng công thức xây dựng từ chi phí sản xuất, chi phí SG&A và một lượng lợi nhuận hợp lý theo phương pháp được quy định tại đoạn 19(b) của SIMA.
Giá xuất khẩu là giá của hàng hóa được bán tới nhà nhập khẩu tại Canada và sẽ được xác định dựa trên phương pháp quy định tại mục 24 của SIMA, căn cứ vào các điều chỉnh về giá bán và giá mua của nhà nhập khẩu. Các loại giá này được điều chỉnh nhằm tạo ra so sánh công bằng và cùng một cấp độ với giá trị thông thường, được tính bằng cách giảm trừ các chi phí, phí, thuế nhập khẩu, thuế nội địa có theo quy định tại tiểu đoạn 24(a)(i) và 24(a)(iii) của SIMA.
Khi phát hiện có tồn tại giao dịch hàng hóa giữa các bên liên kết hoặc thỏa thuận bù trừ về giá, giá xuất khẩu sẽ được xác định dựa trên giá bán lại của nhà nhập khẩu cho người mua không liên kết để đảm bảo cùng một cấp độ thương mại và không có sự bóp méo trong giao dịch khác với mục đích thương mại thuần túy của thương nhân.
Biên độ bán phá giá của nhà xuất khẩu là chênh lệch giữa giá xuất khẩu và giá trị thông thường, được thể hiện dưới dạng % sau khi chia cho giá xuất khẩu ở cùng một cấp độ thương mại. Trong trường hợp giá trị thông thường nhỏ hơn giá xuất khẩu sau điều chỉnh, biên độ bán phá giá là 0. Phương pháp tính của CBSA, về lý thuyết, phù hơp với pháp luật CBPG của WTO và thông lệ quốc tế.
Trong vụ việc này, CBSA nhận được bản trả lời câu hỏi từ 07 nhà sản xuất khẩu của Trung Quốc, trong có 02 nhà xuất khẩu không cung cấp đầy đủ bản trả lời, là Haina Zhongxin Chemical và Nura USA. Như vậy, chỉ có 05 nhà xuất khẩu được tính thuế riêng, cụ thể như sau:
- Shandong Jianyuan Bioengineering:
Shandong Jianyuan Bioengineering được sở hữu riêng theo hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn được thành lập vào năm 2020. Đây là nhà sản xuất đạm, bột đậu và các sản phẩm từ đậu Hà Lan khác. Hàng hóa được vận chuyển đến Canada trong POI được sản xuất tại cơ sở sản xuất qua chính nhà máy Jianyuan Bioengineering và nhà máy thuộc hoàn toàn thuộc sở hữu của Jianyuan Bioengineering là Hengyuan Biotechnology tại Sơn Đông, Trung Quốc. Hàng hóa được bán sang Canada trong POI thông qua công ty thương mại liên kết của Jianyuan Bioengineering là Jianyuan International. Hàng hóa xuất khẩu của Jianyuan Bioengineering chiếm 5,3% tổng lượng hàng hóa bị điều tra từ Trung Quốc sang Canada trong POI. Do cả 3 công ty liên quan đều hợp tác đầy đủ toàn diện trong quá trình điều tra, bao gồm cả cung cấp thông tin bổ sung, CBSA có đủ căn cứ xác minh số lượng giao dịch bán hàng đạt ngưỡng đại diện khi làm bài kiểm tra với giao dịch hàng hóa tương tự tại thị trường nội địa của nước xuất khẩu, đáp ứng được mục 15 và 16 của SIMA. Như vậy, CBSA chấp nhận lượng giao dịch nội địa của công ty này sử dụng để tính toán giá trị thông thường của các nhà sản xuất liên quan. Jianyuan Bioengineering xuất khẩu hàng hóa tới một số nhà nhập khẩu không liên kết tại Canada. Giá xuất khẩu được xác định theo phương pháp quy định tại mục 24 của SIMA, bằng mức thấp hơn giữa giá bán của xuát nhà xuất khẩu và giá mua của nhà nhập khẩu, điều chỉnh giảm chi phí sản xuất, phí phát sinh trong quá trình chuẩn bị hàng hóa xuất khẩu tới Canada. Tổng giá trị thông thường và giá xuất khẩu được ước tính và so sánh chỉ ra rằng nhóm doanh nghiệp này không bán phá giá vào Canada.
- Yantai Shuangta Food
Yantai Shuangta Food được thành lập năm 1992, là nhà sản xuất nhiều sản phẩm từ đậu Hà Lan như là miến, bột đậu, đạm và các sản phẩm có chứa chất xơ. Hàng hóa bị điều tra được xuất sang Canada trong POI đước ản xuất tại nhà máy của Shuangta tại tỉnh Sơn Đông, Trung Quốc. Tất cả hàng hóa bị điều tra trong POI đều được xuất khẩu thông qua công ty liên kết của Shuangta là Zhaoyuan Junbang Trading. Hàng hóa xuất khẩu bởi Shuangta chiếm 18,9% lượng hàng hóa nhập khẩu vào Canada. Trong vụ việc các công ty thuộc nhóm Shuangta hợp tác đầy đủ toàn diện với CBSA trong toàn bộ quá trình vụ việc, vượt qua bài kiểm tra về số lượng giao dịch bán hàng nội địa đạt ngưỡng đại diện, đáp ứng được mục 15 và 16 của SIMA. Giá xuất khẩu được xác định theo phương pháp quy định tại mục 24 của SIMA, bằng mức thấp hơn giữa giá bán của xuát nhà xuất khẩu và giá mua của nhà nhập khẩu, điều chỉnh giảm chi phí sản xuất, phí phát sinh trong quá trình chuẩn bị hàng hóa xuất khẩu tới Canada. Tổng giá trị thông thường và giá xuất khẩu được ước tính và so sánh chỉ ra rằng nhóm doanh nghiệp này không bán phá giá vào Canada.
- Yantai Oriental Protein Tech
Yantai Oriental Protein Tech được thành lập vào năm 2008, vừa là nhà sản xuất vừa là nhà xuất khẩu các sản phẩm đạm, bột đậu và các sản phẩm khác từ đậu Hà Lan. Tất cả hàng hóa bị điều tra trong POI được sản xuất tại nhà máy của Oriental ở Sơn Đông, Trung Quốc và đều được xuất khẩu thông qua chính Oriental và công ty liên kết của Oriental là Yantai Zhongzhen Trading. Hàng hóa xuất khẩu bởi Oriental chỉ chiếm 0,8% lượng hàng hóa nhập khẩu vào Canada. Trong vụ việc các công ty thuộc nhóm Oriental hợp tác đầy đủ toàn diện với CBSA trong toàn bộ quá trình vụ việc, vượt qua bài kiểm tra về số lượng giao dịch bán hàng nội địa đạt ngưỡng đại diện, đáp ứng được mục 15 và 16 của SIMA. Giá xuất khẩu được xác định theo phương pháp quy định tại mục 24 của SIMA, bằng mức thấp hơn giữa giá bán của xuát nhà xuất khẩu và giá mua của nhà nhập khẩu, điều chỉnh giảm chi phí sản xuất, phí phát sinh trong quá trình chuẩn bị hàng hóa xuất khẩu tới Canada. Tổng giá trị thông thường và giá xuất khẩu được ước tính và so sánh chỉ ra rằng nhóm doanh nghiệp này không bán phá giá vào Canada.
- Yantai Yiyuan Biological Engineering
Yantai Yiyuan Biological Engineering được thành lập vào năm 2019. Tất cả hàng hóa bị điều tra trong POI được sản xuất tại nhà máy của Yiyuan ở Sơn Đông, Trung Quốc. Hàng hóa xuất khẩu bởi Yiyuan chỉ chiếm 0,1% lượng hàng hóa nhập khẩu vào Canada. Trong vụ việc các công ty thuộc nhóm Yiyuan hợp tác đầy đủ toàn diện với CBSA trong toàn bộ quá trình vụ việc, tuy nhiên không vượt qua được bài kiểm tra về số lượng giao dịch bán hàng nội địa đạt ngưỡng đại diện, đáp ứng được mục 15 và 16 của SIMA. Theo đó, giá trị thông thường của nhóm này được xác định theo đoạn 19(b) của SIMA. Mức lợi nhuận hợp lý được xác định theo tiểu đoạn 11(1)(b)(iii) của SIMR, sử dụng lợi nhuận bình quân gia quyền có trọng số của các giao dịch bán hàng từ các nhà sản xuất khác có hoạt động xuất khẩu. Giá xuất khẩu được xác định theo phương pháp quy định tại mục 24 của SIMA, bằng mức thấp hơn giữa giá bán của xuát nhà xuất khẩu và giá mua của nhà nhập khẩu, điều chỉnh giảm chi phí sản xuất, phí phát sinh trong quá trình chuẩn bị hàng hóa xuất khẩu tới Canada. Tổng giá trị thông thường và giá xuất khẩu được ước tính và so sánh chỉ ra rằng nhóm doanh nghiệp này không bán phá giá vào Canada.
- Yantai T.Full Biotech
Yantai T.Full Biotech được thành lập từ năm 2011. Tất cả hàng hóa bị điều tra trong POI được sản xuất tại nhà máy của Yantai ở Sơn Đông, Trung Quốc. Hàng hóa xuất khẩu bởi Yantai chiếm 5,4% lượng hàng hóa nhập khẩu vào Canada. Trong vụ việc Yantai hợp tác đầy đủ toàn diện với CBSA trong toàn bộ quá trình vụ việc, vượt qua bài kiểm tra về số lượng giao dịch bán hàng nội địa đạt ngưỡng đại diện, đáp ứng được mục 15 và 16 của SIMA. Giá xuất khẩu được xác định theo phương pháp quy định tại mục 24 của SIMA, bằng mức thấp hơn giữa giá bán của xuát nhà xuất khẩu và giá mua của nhà nhập khẩu, điều chỉnh giảm chi phí sản xuất, phí phát sinh trong quá trình chuẩn bị hàng hóa xuất khẩu tới Canada. Tổng giá trị thông thường và giá xuất khẩu được ước tính và so sánh chỉ ra rằng nhóm doanh nghiệp này bán phá giá vào Canada ở mức 12%.
- Các nhà xuất khẩu Trung Quốc khác
Các nhà xuất khẩu khác không trả lời bản câu hỏi hoặc không cung cấp đầy đủ các thoong tin thì giá trị thông thường và giá xuất khẩu sẽ dựa trên chứng cứ sẵn có bất lợi. Phương pháp định giá trị thông thường và giá xuất khẩu đối với các nhà xuất khẩu khác của Trung Quốc được dựa trên thông tin do CBSA tìm kiếm, bao gồm cả thông tin từ ngành sản xuất nội địa, thông tin được nộp bởi các bên liên quan khác đã tham gia trả lời câu hỏi và các tài liệu hải gia nhập thị trường từ hải quan. CBSA kiểm tra sự chênh lệch giữa giá trị thông thường và giá xuất khẩu cho mỗi giao dịch riêng lẻ của các nhà xuất khẩu đã hoàn thành việc nộp bản trả lời/lập luận trong giai đoạn điều tra, và xem xét sử dụng mức cao nhất (thể hiển ở tỷ lệ phần trăm của giá xuất khẩu), lựa chọn làm cơ sở phù hợp để tính giá trị thông thường. Các giao dịch được kiểm tra để đảm bảo rằng không có hiện tượng bất thường nào bị xem xét, như là lượng hay giá trị thấp, các tác động có tính chất mùa vụ hoặc đặc thù của ngành nghề kinh doanh. Phương pháp tính toán dựa trên các thông tin liên quan tới hàng hóa có xuất xứ Trung Quốc và khuyến khích các xuất khẩu tham gia bằng cách đảm bảo nhà xuất khẩu cung cấp các thông tin quan trọng được yêu cầu trong cuộc điều tra sẽ có kết quả có lợi hơn đối với các nhà xuất khẩu không tham gia. Mức thuế dành cho các nhà xuất khẩu khác của Trung Quốc là 34,8%.
Tổng hợp kết quả biên độ bán phá giá:
Nhà xuất khẩu |
Biên độ bán phá giá |
Shandong Jianyuan Bioengineering |
0% |
Yantai Shuangta Food |
0% |
Yantai Oriental Protein Tech |
0% |
Yantai Yiyuan Biological Engineering |
0% |
Yantai T. Full Biotech. |
12% |
Các nhà xuất khẩu khác |
34,8% |
Total China |
62,1% |
3.5. Điều tra CTC
Theo quy định tại mục 2 của SIMA, CBSA xác định sự tồn tại của trợ cấp nếu chính phủ nước ngoài cung cấp hỗ trợ về tài chính cấu thành lợi ích cho đối tượng sản xuất, phát triển, chế biến, mua hàng, phân phối, vận tải, bán hàng và xuất nhập khẩu hàng hóa. Trợ cấp cũng được điều tra nếu tồn tại dưới bất kỳ hình thái nào của thu nhập hoặc hỗ trợ về giá theo nghĩa của Điều XVI GATT 1994, được chi tiết ở phần Phụ lục 1A của SCMA cấu thành lợi ích riêng biệt.
CBSA cho rằng trợ cấp sẽ có tính đối kháng nếu về bản chất, trợ cấp này mang tính riêng biệt. Tuân thủ tiểu mục 2(7.2) của SIMA, trợ cấp có tính riêng biệt nó nó hữu hạn dưới dạng một quy định pháp lý, nội quy hoặc công cụ hành chính hoặc ở các văn bản có tính chất công nhưng lại tạo ra lợi ích cho doanh nghiệp cụ thể trong phạm vi thẩm quyền của cơ quan cấp trợ cấp; hoặc là một trợ cấp bị cấm[2].
Trong vụ việc này, Chính phủ Trung Quốc (GOC) không hợp tác với CBSA và không nộp bất kỳ trả lời nào theo yêu cầu của CBSA để cung cấp thông tin hay phản bác các cáo buộc của Nguyên đơn. CBSA không có cơ sở để xác minh số lượng, khối lượng các trợ cấp từ GOC. Tuy nhiên, dù không có sự hợp tác từ GOC, CBSA vẫn công nhận sự hợp tác từ các nhà xuất khẩu và xác định trị giá trợ cấp cho các nhà xuất khẩu hợp tác. Lượng trợ cấp được xác định trên cơ sở các thông tin do nhà xuất khẩu hợp tác cung cấp và các thông tin được công bố công khai trên hệ thống dữ liệu của CBSA.
CBSA điều tra 16 chương trình trợ cấp bị cáo buộc và tăng lên 26 chương trình trong quá trình điều tra vụ việc này, gồm: vay ưu đãi và bảo lãnh khoản vay, giảm lãi suất và giảm lợi nhuận đối với các khoản vay nhỏ và siêu nhỏ, cung cấp hỗ trợ xuất khẩu và các hoạt động nhằm phát triển xuất khẩu khác và tăng cương khả năng sáng tạo khoa học và công nghệ, trợ cấp liên quan tới khoa học và công nghê, trợ cấp liên quan tới lao động, đào tạo và tuyển dụng, các chính sách thuế ưu đãi liên quan tới nghiên cứu và đầu tư, giảm thuế tài sản và thuế thu nhập tại các địa phương, hoàn thuế GTGT đối với các dịch vụ và sản phẩm sử dụng hiệu quả các nguồn lực, bảo lãnh tín dụng xuất khẩu và tài chính xuất khẩu ưu đãi, ưu đãi thiết kế, nghiên cứu và phát triển, bảo lãnh nguồn vốn phát triển ngoại thương, giảm thuế TNDN cho doanh nghiệp siêu nhỏ và nhỏ, giảm thuế TNDN cho các doanh nghiệp công nghệ mới (NHTE), thưởng cho việc kiểm soát ô nhiễm, trợ cấp lãi suất cho các doanh nghiệp dẫn đầu.
Các kết quả điều tra chỉ ra biên độ trợ cấp mà các doanh nghiệp được hưởng như sau:
Nhà xuất khẩu |
Biên độ trợ cấp |
Shandong Jianyuan Bioengineering |
1,5% |
Yantai Shuangta Food |
1,3% |
Yantai Oriental Protein Tech |
1,1% |
Yantai Yiyuan Biological Engineering |
2,2% |
Yantai T.Full Biotech |
0,8% |
Các nhà xuất khẩu khác |
19,8% |
- Một số phân tích chi tiết về trợ cấp:
Bảo lãnh khoản vay và khoản vay ưu đãi nhắm tới lợi ích từ việc chính phủ cung cấp lãi suất tốt hơn lãi suất thông thường tại thị trường. CBSA xác định rằng các lợi ích riêng biệt trong trường hợp này đã được cung cấp cho doanh nghiệp xuất khẩu hàng hóa bị điều tra sang Canada, và lãi suất này cũng thấp hơn lãi suất của các khoản vay thương mại không được chính phủ bảo lãnh. Các tổ chức tín dụng tại Trung Quốc đã thực thi quyền của chính phủ để thực hiện nghiệp vụ này. Các tổ chức tín dụng đã bỏ qua khoản lợi nhuận từ việc cho vay, không phù hợp với tính chất thương mại của doanh nghiệp tín dụng.
Khoản vay chính sách cho thành phố Zhaoyuan là nơi tập trung tới 80% các nhà sản xuất đạm từ đậu Hà Lan. Theo trả lời đề xuất “Khuyến nghị Phát triển ngành công nghiệp sức khỏe từ đạm”, chính quyền địa phương đã tạo ra cho thành phố Zhaoyuan một loại chứng chỉ có tên là “Chứng chỉ Chuyển đổi ngoại thương quốc gia và Phát triển cơ sở” nhằm thiết lập cấu trúc nền móng phát triển cho ngành công nghiệp đạm cao cấp, gồm cả đạm từ đậu Hà Lan. Có thể nói đấy là một trong những chính sách phát triển ngành rất đặc thù, thể hiện rõ quan điểm xuyên suốt của chính phủ đối với một ngành nghề tiềm năng, giống như việc xây dựng các quy hoạch, kế hoạch phát triển ngành thép hoặc ngành vật liệu xây dựng. Để xúc tiến các hoạt động phát triển này, chính quyền địa phương đã cung cấp các hỗ trợ về bảo lãnh khoản vay để nâng cấp mối quan hệ giữa thượng và hạ nguồn của chuỗi công nghiệp. Lợi ích nhận được bằng với mức chênh lệch mà người nhận trả khoản vay và khoản vay thương mại thông thường.
Bảo lãnh/bảo hiểm tín dụng xuất khẩu và tài chính xuất khẩu ưu đãi do Tập đoàn Bảo hiểm Xuất khẩu và Tín dụng Trung Quốc (Sinosure) là doanh nghiệp nhà nước thực thiện các chính sách cho vay của nhà nước. Như vậy, đây được coi là một tổ chức công. Ngân hàng Xuất nhập khẩu Trung Quốc và Sinossure đã độc lập cung cấp các khoản bảo lãnh tín dụng xuất khẩu, tạo ra một vai trò cốt lõi trong việc hỗ trợ các doanh nghiệp tiến ra toàn cầu và nâng tầm xuất khẩu các mặt hàng mới và mặt hàng công nghệ của Trung Quốc. CBSA đã xem xét và kết luận chương trình tương tự trong vụ việc ống thép và ghế bọc đệm[3].
Khoản vay nhỏ và siêu nhỏ và cám kết giảm lợi nhuận của chính phủ thông qua Yantai Finance Bureau, đã cung cấp các trợ cấp khoản vay cho các doanh nghiệp dẫn đầu trong ngành công nghiệp hóa nông thôn tại tỉnh Sơn Đông. Chương trình này tạo ra lợi ích tài chính cho cac doanh nghiệp trong ngành đạm.
GOC cũng đã cung cấp nhiều phần thưởng cho việc sáng tạo và phát triển nhằm khuyến khích doanh nghiệp trong lĩnh vực khoa học và công nghệ, cung cấp các hỗ trợ tài chính bằng tiền cho các dự án mà doanh nghiệp chứng mình việc việc xuất khẩu sẽ cải thiện sự cạnh tranh trong sản phẩm xuất khẩu, phát triển nền tảng gia công xuất khẩu, tăng cường nhận diện thương hiệu ở nước ngoài, cung cấp các đào tạo ngoại thương chuyên nghiệp và khai thác các thị trường quốc tế. GOC có các quỹ để cung cấp các phần thưởng này như là Quỹ Phát triển ngoại thương. Ngoài ra, CBSA cũng tiếp tục phát hiện nhiều hỗ trợ nhằm phát triển thị trường xuất khẩu hoặc dựa trên thành tích xuất khẩu. Các trợ cấp này chiếu theo quy định của WTO đều là các trợ cấp bị cấm hoặc có thể đối kháng. CBSA cũng kết luận GOC cung cấp các hỗ trợ tài chính cho doanh nghiệp để hỗ trợ thiết kế, nghiên cứu và phát triển sản phẩm giống như nhiều vụ việc trước đây như ống đống, ống thép, ghế bọc đệm[4]… Một số chương trình mới là như thưởng cho việc kiểm soát ô nhiễm thông qua đầu tư thiết bị kiểm soát ô nhiễm môi trường, đầu tư sâu vào khoa học và công nghệ, đầu tư cho sự ổn định công việc bằng cách chi trả bảo hiểm thất nghiệp cũng như tăng cường tuyển dụng, đào tạo, bảo hiểm phụ cho nghề nghiệp của các nhân viên, mối quan hệ lao động. Không thể không nhắc tới chính sách ưu đãi cho việc bảo trì tòa nhà hoặc các chính sách bảo hiểm cao cấp, ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp đối với các doanh nghiệp công nghệ cao tới từ 15 tới 25% hoặc giảm thuế thu nhập doanh nghiệp cho các doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ chỉ còn 10% thay vì 25%. Cuối cùng, GOC mua hàng hóa với giá cáo và cung cấp dịch vụ với giá thấp. Cụ thể, GOC có chính sách kiểm soát đất đai toàn dân thông qua cấp quyền sử dụng đất, đồng thời cung cấp nguyên liệu đầu vào thông qua các doanh nghiệp nhà nước (SOE) với giá thấp hơn thị trường thông thường, cung cấp giá điện thấp để tạo ra lợi thế xuất khẩu.
3.6. Quyết định áp dụng thuế tạm thời
Ngày 22 tháng 7 năm 2024, theo quy định tại tiểu mục 38(1) của SIMA, CBSA ban hành kết luận sợ bộ về trợ cấp và bán phá giá đối với đạm từ đậu Hà Lan có xuất xứ hoặc nhập khẩu từ Trung Quốc.
Theo quy định của SIMA, thuế tạm thời do các nhà xuất khẩu nộp đối với hàng hóa bị áp thuế theo kết luận của CBSA, theo quy định của WTO là không quá 120 ngày, bằng tiền mặt hoặc séc được chứng nhận.
Chi tiết thuế tạm thời phải nộp như sau:
Nhà xuất khẩu |
Biên độ bán phá giá |
Biên độ trợ cấp |
Thuế tạm thời |
---|---|---|---|
Shandong Jianyuan Bioengineering |
0% |
1,5% |
1,5% |
Yantai Shuangta Food |
0% |
1,3% |
1,3% |
Yantai Oriental Protein Tech |
0% |
1,1% |
,1% |
Yantai Yiyuan Biological Engineering |
0% |
2,2% |
2,2% |
Yantai T. Full Biotech |
12,0% |
0,8%[5] |
12,0% |
Các nhà xuất khẩu khác |
34,8% |
19,8% |
54,6% |
[1] Canadian International Trade Tribunal; Preliminary Injury Inquiry – Pea Protein – Statement of Reasons
(July 5, 2024), PI-2024-001, para. 36.
[2] Trợ cấp bị cấm (Trợ cấp đèn đỏ) bao gồm: trợ cấp xuất khẩu (trợ cấp căn cứ vào kết quả xuất khẩu, ví dụ thưởng xuất khẩu, trợ cấp nguyên liệu đầu vào để xuất khẩu, miễn thuế/giảm thuế cao hơn mức mà sản phẩm tương tự bán trong nước được hưởng, ưu đãi bảo hiểm xuất khẩu, ưu đãi tín dụng xuất khẩu…); hoặc trợ cấp nhằm ưu tiên sử dụng hàng nội địa so với hàng nhập khẩu. Đây là những hình thức trợ cấp mà hiện tất cả các thành viên WTO đều bị cấm áp dụng.
[3] Line Pipe, UDS, and Mattresses
[4] Sucker Rods, Copper Tube, Photovoltaic Modules and Laminates, OCTG, Unitized Wall Modules, Seamless Casing, Pup Joints, Plywood, UDS, Mattresses, and Wind Towers.
[5] Lượng trợ cấp không đáng kể nên không bị áp dụng thuế chống trợ cấp tạm thời