1. Quy định điều tra thiệt hại trong các vụ việc chống bán phá giá của Ấn Độ
- Cơ sở pháp lý: Pháp luật của Ấn Độ về phòng vệ thương mại, trong đó có nội dung điều tra thiệt hại trong các vụ việc CBPG được quy định tại Đạo luật Thuế Hải quan 1975; Đạo luật Ngoại thương sửa đổi 2010; Quy tắc về thuế Hải quan 1995.
- Cơ quan có thẩm quyền: Cơ quan điều tra các vụ việc chống bán phá giá của Ấn Độ là Tổng vụ Phòng vệ thương mại (Directorate General of Trade Remedies- DGTR) (điều tra cả vấn đề phá giá và thiệt hại), thuộc Department of Commerce, Bộ Thương mại và Công nghiệp.
2.Thực tiễn điều tra thiệt hại của Ấn Độ trong các vụ việc chống bán phá giá
Ấn Độ đã điều tra 972 vụ CBPG, trong đó áp 145 vụ. Với Việt Nam, Ấn Độ đã điều tra 19 vụ CBPG đối với các sản phẩm: ống đồng, sợi polyester, ván sợi MDF, xơ sợi, phụ gia chăn nuôi choline, thép cuộn không gỉ, khuôn in kỹ thuật số, thép không hợp kim, sợi nylon, sọi spandex, pin khô, thước dây, bộ đồ ăn và dụng cụ làm bếp, máy chế biến nhựa, đĩa ghi DVD, đĩa compact, đèn huỳnh quang.
Liên quan đến điều tra thiệt hại, Cơ quan điều tra xem xét các yếu tố sau đây
Khi xem xét tác động về giá, Ấn độ cũng xem xét tác động kìm giá và ép giá, chênh lệch giá (price undercutting). Khi xem xét vấn đề price undercutting, CQĐT tính toán giá bán thuần thực tế (net sales realization- NSR) là giá bán trừ đi thuế, phí, hoa hồng v v. So sánh giá của hàng hoá liên quan giữa giá nhập khẩu tại cảng (landed value) của hàng nhập khẩu từ những nước bị điều tra và giá NSR của ngành sản xuất trong nước. Giá landed value là trị giá của hàng nhập khẩu có thể tính toán được cộng với thuế nhập khẩu và 1% phí bốc dỡ hàng.
CQĐT cũng thường sử dụng phân tích price underselling. Underselling là thuật ngữ để chỉ lượng hàng nhập khẩu với giá dưới mức cần thiết để xoá bỏ thiệt hại. Khoản chênh lệch giữa giá bán không bị thiệt hại (non-injurious price- NIP) và landed value của hàng nhập khẩu được gọi là biên độ bán dưới giá (price underselling margin). Price underselling có thể dẫn tới kìm giá (suppression). Tại Ấn Độ, giá NIP được xác định trên cơ sở chi phí sản xuất bình quân gia quyền của ngành sản xuất trong nước trong thời kỳ điều tra (POI).
CQĐT cũng xem xét định mức tiêu thụ và nguyên liệu, chi phí điện nước, chi phí thực tế đối với chi phí chung, tỷ lệ sử dụng công suất v v để xác định chi phí sản xuất. Ngoài ra, CQĐT cũng có 1 khoản dự phòng là một lượng nhất định đối với ROCE (tỷ suất sinh lời). NIP là giá mà đáng nhẽ ngành sản xuất trong nước đã bán ở mức đó theo điều kiện thông thường trong POI, hoặc nói cách khác, là mức giá mà ngành sản xuất trong nước đáng lẽ có thể bán mà không bị ảnh hưởng bởi hàng nhập khẩu phá giá. Ở mức giá NIP, ngành sản xuất trong nước có thể bù đắp được chi phí sản xuất và có một mức tỷ suất sinh lời hợp lý sau khi đã xem xét định mức tiêu thụ và thông lệ của ngành, chi phí nguyên liệu thô, chi phí điện nước, tỷ lệ sử dụng công suất. NIP thường là một ngưỡng có ích để xây dựng giá giả định không bị ảnh hưởng bởi hàng nhập khẩu phá giá. NIP ở một số nước khác như Úc được coi là giá bán không bị ép giá, mà theo như tên goi, cho phép ngành sản xuất trong nước bán ở mức này trong điều kiện không bị ảnh hưởng bởi hàng nhập khẩu phá giá.
- Quy tắc thuế thấp hơn (theo Điều 9.1 ADA): được áp cho từng nhà xuất khẩu hợp tác. CQĐT cũng tính NIP để áp dụng quy tắc thuế thấp hơn. Trên thực tế, quy tắc này dựa trên biên độ thiệt hại (khoản chênh lệch giữa giá NIP tại xưởng và trị giá landed value của hàng nhập khẩu). Trong trường hợp này, việc tính NIP nhằm 2 mục đích: xem xét vấn đề ép/kìm giá cũng như mức thuế CBPG được áp.
Việc tính NIP có tác dụng trực tiếp trong một số vụ điều tra tại Ấn Độ, ví dụ vụ việc acid terphthalic tinh khiết (PTA I) từ Tây Ban Nha, Nhật Bản và Malaysia đã không áp thuế với hàng nhập khẩu từ Nhật Bản, Malaysia do giá nhập khẩu từ những nước này cao hơn mức NIP (nên dẫn tới biên độ thiệt hại âm) và không có mối quan hệ nhân quả do hàng từ Nhật Bản và Malaysia (giá bán của ngành sản xuất trong nước thấp hơn giá nhập khẩu nên không có price undercutting hoặc ép giá).
Vấn đề tính toán NIP tại Ấn Độ đã là một vấn đề gây tranh cãi nhiều do ngành sản xuất trong nước tìm kiếm một mức NIP cao hơn và nhà xuất khẩu nước ngoài, nhà nhập khẩu sẽ phản đối quyết định về mức giá đó. Ví dụ, trong vụ PTA-I, một trong những vấn đề là liệu CQĐT có nên sử dụng giá nguyên liệu thô, giá điện nước v v thực tế để xác định NIP hay nên dựa vào giá thị trường. Đối với nhà sản xuất ở công đoạn đầu, việc sử dụng chi phí chuyển giao thực tế (nghĩa là chi phí dây chuyền) sẽ là không có lợi. Bên kháng cáo đã lập luận rằng họ đã sử dụng điện từ đường dây tải điện và cũng sử dụng nguồn điện riêng của mình. Trong vụ việc này, CQĐT đã tính toán chi phí điện sau khi xem xét chi phí thực tế. Trong vụ kháng cáo, cơ quan phúc thẩm CESTAT đã kết luận rằng CQĐT đã có lý khi sử dụng chi phí nguyên liệu thô và chi phí điện thực tế vì chi phí thực tế này là cơ sở đáng tin cậy để phân tích thiệt hại. CQĐT cũng tính công suất sử dụng thực tế ở mức cao nhất (cao hơn 100%) trong vòng 3 năm để phân bổ chi phí cố định theo đơn vị. Kết luận của CESTAT trong vụ này đã bị kháng cáo tiếp tại Toà Tối cao Ấn Độ. Toà Tối cao đã bác bỏ cách tiếp cận của CQĐT trong việc sử dụng mức tối ưu trong công suất sử dụng thực tế của ngành sản xuất trong nước. Toà Tối cao cho rằng “không nên xét đến những cơ hội và bất lợi đặc biệt mà ngành sản xuất trong nước có thể có do tiêu dùng nội bộ”. Kết luận này được coi là giúp ngành sản xuất trong nước có được mức NIP cao hơn và do đó là sự bảo hộ cao hơn.
Việc sử dụng ROCE 22% để tính toán NIP cũng là chủ đề gây tranh cãi. Một trong những quan điểm phản đối là mức 22% là mức cao bất thường đối với một số ngành và tạo ra mức tỷ suất sinh lời không bị rủi ro một cách giả tạo. Ngoài ra ROCE giữa các ngành cũng khác nhau. Theo đó, năm 2011, Ấn Độ đã sửa đổi Quy định Thuế hải quan (cách xác định, tính toán và thu thuế CBPG đối với hàng nhập khẩu và để xác định thiệt hại) liên quan đến quy tắc tính toán giá NIP, theo đó chi phí sản xuất phải được tính dựa trên cơ sở:
Quy định NIP 2011 này cũng quy định việc tính toán tỷ suất sinh lời hợp lý (trước thuế) đối với số vốn trung bình sử dụng để sản xuất sản phẩn và bao gồm việc trả lãi suất, thuế doanh nghiệp và lợi nhuận. Theo Quy định số 4(ix), lượng vốn trung bình sử dụng là tổng của “tài sản cố định ròng và vốn lưu động ròng” mà sẽ được tính toán trên cơ sở trung bình của 2 yếu tố này tại đầu kỳ và cuối kỳ điều tra.
- So sánh các ngưỡng khi phân tích tác động giá: so sánh giá và mức độ thương mại sử dụng trong những so sánh này đống vai trò quan trọng trong phân tích tác động về giá và phân tích mối quan hệ nhân quả. Trong vụ việc CBPG với poly iso butylene, CQĐT đã áp thuế CBPG với tất cả các nước bị điều tra trừ EU mặc dù hàng nhập khẩu từ EU được kết luận là phá giá. CQĐT không chứng minh được mối quan hệ nhân quả do thực tế là giá nhập khẩu bình quân gia quyền từ EU cao hơn NIP của ngành sản xuất trong nước. Nhà xuất khẩu EU lập luận rằng lượng nhập khẩu đáng kể dưới giá NIP mà có thể gây ra tác động giá. Vấn đề là liệu CQĐT có nên lấy giá bình quân gia quyền của tất cả hàng nhập khẩu hay chỉ trên cơ sở so sánh các giao dịch cụ thể. Toà án cho rằng: chúng tôi không chấp nhận lập luận rằng mức bình quân gia quyền là phương pháp phân tích duy nhất được phép hoặc hợp lý. Do trong quy định tách riêng 2 phụ lục điều chỉnh hai vấn đề: Phụ lục I về các nguyên tắc về việc xác định trị giá thông thường, giá xuất khẩu và biên độ phá giá; Phụ lục II là nguyên tắc xác định thiệt hại. Nếu quy định cho phép các nguyên tắc giống nhau điều chỉnh cả hai vấn đề, thì đã không phải quy định tại 2 phụ lục khác nhau. Do đó việc đưa ra quan điểm không chỉ nên dựa vào quy trình tính toán cơ học vì liên quan đến việc phân tích số liệu và hình thành quan điểm dựa trên việc phân tích đó.
CESTAT bác bỏ lập luận của CQĐT và kết luận rằng phân tích tác động giá không nhất thiết phải trên cơ sở bình quân gia quyền. Kết luận này nhắc lại rằng phương pháp so sánh áp dụng cho việc tính toán biên độ phá giá không nhất thiết cũng phải áp cho phân tích tác động giá.
Tìm hiểu một số vụ việc CBPG trong giai đoạn 1994-2013 liên quan đến vấn đề thiệt hại và mối quan hệ nhân quả:
- Giai đoạn 1 (1994-2003): trong giai đoạn này có nhiều đơn kiện CBPG được nộp dù không có bằng chứng đầy đủ về thiệt hại đáng kể và mối quan hệ nhân quả thông qua việc xem xét quy trình, phương pháp và lý lẽ do CQĐT đưa ra.
+ Trong vụ việc thép cuộn cán nóng từ Nga, Ukraine và Kazakhstan (14/1/97), CQĐT thu thập thông tin về các yếu tố thiệt hại của ngành sản xuất trong nước chỉ trong năm trước thời kỳ điều tra. Ngoài ra, trong 15 yếu tố thiệt hại, chỉ 6 yếu tố cho thấy có thiệt hại. Một số các yếu tố quan trọng như năng suất, dòng tiền, sản lượng, lương và việc làm không thay đổi so với năm trước đó. Mặc dù có kết luận về thiệt hại và mối quan hệ nhân quả nhưng việc xem xét này không dựa trên phân tích xu hướng trong 1 giai đoạn điều tra thiệt hại dài.
+ Vải acrylic là một sản phẩm bị điều tra nhiều tại Ấn Độ. Trong vụ việc sợi acrylic từ Thổ Nhĩ Kỳ, Hungary và EU (34/1/1998), CQĐT kết luận có sự gia tăng lượng nhập khẩu từ các nước bị điều tra đặc biệt là Thổ Nhĩ Kỳ. Tuy nhiên, CQĐT không xem xét xu hướng thiệt hại trong 1 giai đoạn dài. Kết luận thiệt hại chỉ với các yếu tố: thị phần, kìm giá, việc làm, lợi nhuận và tồn kho. Cũng lưu ý là có 5 yếu tố không được nhắc đến trong kết luận cuối cùng. CQĐT cũng tính toán NIP và xác định có sự kìm giá. Tuy nhiên, mức độ suy giảm trong các yếu tố thiệt hại không được chỉ ra rõ ràng trong kết luận cuối cùng. CQĐT cũng không cung cấp bảng số liệu công khai về các yếu tố này mà chỉ nêu rằng CQĐT đã xem xét các yếu tố thiệt hại. Đối với vấn đề mối quan hệ nhân quả, CQĐT khẳng định như sau: do có sự tăng thị phần của hàng nhập khẩu từ Thổ Nhĩ Kỳ dẫn tới việc suy giảm thị phần của nguyên đơn. Hàng nhập khẩu này bán với giá thấp hơn giá của sản phẩm trong nước dẫn tới việc ngành sản xuất trong nước phải bán với giá không có lợi nhuận. DO đó, ngành sản xuất trong nước bị thiệt hại do hàng nhập khẩu phá giá từ những nước bị điều tra. Nói cách khác, việc kết luận về hiện tượng kìm giá và ép giá được sử dụng để chứng minh về thiệt hại và mối quan hệ nhân quả. Tác động nhân quả của các yếu tố khác không được xem xét
+ Trong vụ acid tinh khiết teraphtahlic từ Nhật Bản, Tây Ban Nha, Malaysia và Đài Loan (27/1/98) (vụ PTA-I), CQĐT kết luận rằng hầu hết các yếu tố thiệt hại của ngành sản xuất trong nước đã cho thấy có sự tăng trưởng trong POI. Tuy nhiên, CQĐT lưu ý rằng giảm bán hàng và lỗ tăng là đủ để cấu thành thiệt hại đáng kể với ngành sản xuất trong nước. CQĐT cũng không bình luận gì về một số các yếu tố thiệt hại mà chỉ nêu rằng các yếu tố thiệt hại khác đã được xem xét trong kết luận sơ bộ, tuy nhiên, theo quy định của ADA (Điều 3.1 và 3.4 về việc xem xét khách quan) thì CQĐT phải xem xét tất cả các yếu tố thiệt hại tại kết luận cuối cùng để đưa ra 1 bức tranh chung về tình hình của ngành sản xuất trong nước.
+ Trong vụ việc CBPG với pin acid chì từ Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn Quốc và Bangladesh (67/1/2000), chỉ 11 trong số 15 yếu tố thiệt hại trong POI cho thấy có thiệt hại. Tuy nhiên số liệu thu thập chỉ cho năm trước POI. Mặc dù có thể nói rằng tình hình của ngành sản xuất trong nước đã suy giảm trong POI, tuy nhiên không rõ là liệu ngành có hoạt động tương đối tốt so với năm trước đó hay không.
+Trong vụ việc CBPG với acid citric từ Trung Quốc (14/6/2011), chỉ 10 trong số 15 yếu tố cho thấy thiệt hại. Các yếu tố như tỷ suất sử dụng công suất, tồn kho cho thấy sự tăng trưởng đáng kể trong khi lợi nhuận suy giảm. Kết luận cuối cùng phân tích chỉ 5 hoặc 6 trong số 15 yếu tố thiệt hại. Một số các yếu tố khác đã được nêu ở kết luận sơ bộ. Ngoài ra, chỉ một số các yếu tố trong năm trước được xem xét chi tiết và một số thông tin quan trọng như xu hướng về tỷ suất lợi nhuận là được giữ bí mật. CQĐT đã kết luận về thiệt hại đáng kể và mối quan hệ nhân quả rằng không phải tất cả các yếu tố thiệt hại liên quan đến ngành sản xuất trong nước cần phải cho thấy có thiệt hại.
+ Trong vụ việc CBPG với sợi polyester thô từ Hàn Quốc, Indonesia, Thái Lan, Đài Loan (29/1/98), CQĐT kết luận rằng ngành sản xuất trong nước đã hoạt động kém so với những năm trước liên quan đến bán hàng trong nước, tỷ suất lợi nhuận. Trên thực tế, kết luận cuối cùng chỉ ra sự tăng trưởng trong các yếu tố khác mặc dù hầu hết các yếu tố thiệt hại không được nêu cụ thể. Tuy nhiên, CQĐT đã kết luận rằng ngành sản xuất trong nước đã chịu thiệt hại đáng kể.
+ Vụ việc CBPG với một số rượu acyclic từ Singapore, Rumani, Malaysia và Nam Phi (63/1/2001), kết luận vụ việc này đã bị ngành sản xuất trong nước, nhà xuất khẩu và nhà nhập khẩu phản đối tại nhiều diễn đàn tư pháp. Việc xem xét các yếu tố thiệt hại cho thấy rằng ít nhất 5 trong số 15 yếu tố là có tăng trưởng. Ví dụ, công suất, công suất sử dụng, sản xuất, bán hàng, thị phần, tồn kho v v đã tăng trưởng trong khi các yếu tố khác như việc làm, lương thì ổn định. Tuy nhiên, CQĐT kết luận rằng liên quan đến lượng hàng nhập khẩu và tác động giá, ngành sản xuất trong nước đã chịu thiệt hại đáng kể. CQĐT nhấn mạnh về tỷ suất lợi nhuận của ngành sản xuất trong nước. CQĐT công nhận sự tăng trưởng trong một số yếu tố thiệt hại nhưng cho rằng việc kết luận thiệt hại nghiêm trọng là có căn cứ vì sự tăng trưởng có thể là do việc áp thuế CBPG từ những nước khác.
+Bisphenol-A là một sản phẩm hoá học bị điều tra trong nhiều vụ việc CBPG trong thời gian dài. Trong vụ việc CBPG với sản phẩm này từ EU và Đài Loan (47/1/99), CQĐT đã xem xét một số yếu tố thiệt hại trong POI. So sánh với những vụ việc trước đây, vụ việc này có số liệu tương đối đầy đủ. Bán hàng của ngành sản xuất trong nước tăng trưởng trong POI và 2 năm trước đó; sản lượng trong nước và thị phần cũng tăng; công suất sử dụng vượt 100% trong giai đoạn 1998-1999 và chiếm 106% trong POI; tồn kho cuối kỳ thấp nhất trong 12 tháng trên tổng 18 tháng của POI. Trong một thị trường tăng trưởng với cầu trong nước cao, ngành sản xuất trong nước tăng cường công suất và công suất được cấp phép được coi là sẽ tăng trong giai đoạn 1999-2000, bao gồm 6 tháng thuộc POI. Lập luận của ngành sản xuất trong nước là ngành đã chịu thiệt hại đáng kể trong giai đoạn 1998-1999 và POI. Mặc dù có sự gia tăng đáng kể nhập khẩu từ nước bị điều tra, CQĐT lưu ý rằng trị giá nhập khẩu tại cảng từ EU và Đài Loan cao hơn đáng kể giá bán của ngành sản xuất trong nước. Theo CQĐT, không có hiện tượng price undercutting. Mặc dù CQĐT đã tính toán NIP của ngành sản xuất trong nước, trong kết luận cuối cùng không thấy rõ là liệu có kìm giá hay không. Theo CQĐT, trị giá nhập khẩu của hàng từ EU và Đài Loan cao hơn giá bán thuần của ngành sản xuất trong nước, thiệt hại do đó không đến từ hàng nhập khẩu. Đây là một trong số ít các vụ việc mà CQĐT đưa ra kết luận không có thiệt hại và mối quan hệ nhân quả.
Các vụ việc trong giai đoạn này cho thấy rằng CQĐT tiến hành phân tích thiệt hại và mối quan hệ nhân quả chủ yếu dựa trên thông tin trong POI. XU hướng trong suốt thời kỳ điều tra thiệt hại không được xem xét đầy đủ. Tất cả 15 yếu tố thiệt hại không được xem xét hết trong kết luận cuối cùng, mặc dù một số các yếu tố có thể đã được xem xét trong kết luận sơ bộ. Do Cơ quan Phúc thẩm trong vụ Trung Quốc- GOES đã nêu, việc xem xét tác động giá của CQĐT phải được thể hiện trong các tài liệu tương ứng, để cho phép một bên liên quan xác minh liệu CQĐT có thực sự xem xét yếu tố đó hay không. Nhìn chung, các kết luận cuối cùng của các vụ việc trong giai đoạn này thường ngắn, và không có phân tích đầy đủ hợp lý.
+ Trong vụ giấy bồi 80 GSM từ EU và Indonesia (14/7/2003), CQĐT đã phân tích ngắn gọn các yếu tố theo quy định. So với các vụ việc trong giai đoạn I, kết luận cuối cùng đã phân tích 15 yếu tố thiệt hại và một số yếu tố như giảm lượng bán, và các yếu tố về đe doạ thiệt hại. Kết luận cuối cùng cho thấy có sự tăng trưởng trong doanh số bán hàng, sản lượng, tồn kho (tỷ lệ % của doanh số bán hàng/sản lượng), năng suất, lương v v trong khi các yếu tố khác như công suất sử dụng, khả năng tăng vốn, dòng tiền, tăng trưởng v v không cho thấy tác động bất lợi. Mặt khác, các yếu tố như thị phần, tỷ suất lợi nhuận, hệ số thu nhập trên đầu tư và lương giảm trong POI khi so với năm trước. Vụ việc này đáng lưu ý do CQĐT không kết luận rằng ngành sản xuất trong nước bị thiệt hại dựa trên đánh giá các yếu tố như giảm thị phần, tỷ suất lợi nhuận, hệ số thu nhập trên đầu tư của ngành sản xuất trong nước mà trước đây CQĐT thường dựa vào các yếu tố này để đưa ra kết luận. Biên độ phá giá từ những nước bị điều tra cũng tương đối cao. Tác động về lượng của hàng nhập khẩu phá giá đối với các yếu tố thiệt hại của ngành sản xuất trong nước cũng đáng kể. Tuy nhiên, CQĐT đặc biệt chú ý đến tác động về giá. CQĐT lưu ý không có hiện tượng bán dưới giá đối với hàng nhập khẩu từ EU trong khi hàng nhập khẩu từ Indonesia thì có. Nói cách khác, theo CQĐT, giá của hàng nhập khẩu cao hơn giá của hàng trong nước trong POI. Trong khi CQĐT lưu ý có sự suy giảm trong giá bán của sản phẩm trong nước, không có hiện tượng price underselling do chi phí sản xuất của ngành sản xuất trong nước giảm. Do đó, CQĐT kết luận rằng ngành sản xuất trong nước không chịu thiệt hại trong POI.
+ Trong vụ việc với sản phẩm vòng bi (14/30/2002), các chỉ số kinh tế của ngành sản xuất trong nước tương đối ổn định khi so với năm trước đó. Ít nhất 6 yếu tố thiệt hại cho thấy xu hướng sụt giảm mặc dù một số yếu tố cho thấy tăng trưởng. CQĐT cung cấp số liệu trong 3 năm trước POI và kết luận rằng có sự gia tăng đáng kể lượng nhập khẩu (đặc biệt là từ Trung Quốc) và sự suy giảm thị phần, hệ số thu nhập trên đầu tư và việc làm của ngành sản xuất trong nước nhưng có sự tăng trưởng trong năng suất, lợi nhuận, tồn kho, sản lượng và công suất sử dụng. Tuy nhiên, CQĐT không tìm thấy bằng chứng thiệt hại đáng kể. Vụ việc này cũng cho thấy việc CQĐT phụ thuộc vào các số liệu hoạt động. Và cũng có thể thấy từ lập luận rằng việc không có price underselling và price undercutting là một số các yếu tố để CQĐT dựa vào kể cả khi kết luận không có thiệt hại nghiêm trọng.
+ Vụ việc CBPG với Acetone từ EU, Đài Loan, Singapore, Nam Phi và Hoa Kỳ (14/4/2006) cho thấy sự tiến bộ về mặt định tính trong việc đánh giá các yếu tố thiệt hại khi đã đánh giá cả 15 yếu tố thiệt hại trong khoảng thời gian dài hơn. Thời kỳ điều tra là 7/2005-6/2006. Tuy nhiên, số liệu về các yếu tố vĩ mô và vi mô khác nhau được cung cấp cho giai đoạn 2003-2006. Việc xem xét số liệu của 3 năm trước đó là rất hữu ích để hiểu các yếu tố thiệt hại khác nhau như thế nào so với năm điều tra mặc dù có sự tăng trưởng vào năm trước POI. Cụ thể là, các chỉ số tài chính như ROI, ROCE cho thấy có sự tăng trưởng đáng kể vào năm trước POI và số liệu tốt vào năm POI. Một số các yếu tố khác như tiền lương, lao động, bán hàng, sản xuất v v đã tăng trưởng trong POI. Tuy nhiên, dựa trên phân tích về kìm giá và ép giá, CQĐT đã đưa ra kết luận có mối quan hệ nhân quả.
+ Vụ việc Melamine từ EU, Iran, Indonesia và Nhật Bản (14/35/2010), CQĐT nhận thấy có thiệt hại trong một số yếu tố. Ngành sản xuất trong nước có thiệt hại trong POI. Tuy nhiên, các chỉ số như công suất sử dụng, năng suất, lao động và tiền lương vẫn tương đối tốt trong thời kỳ này. Mặc dù bán hàng trong nước trong POI đã giảm tương đối so với năm trước, không có xu hướng rõ rệt nào cho thấy có sự suy giảm trong thời kỳ điều tra thiệt hại. CQĐT kết luận rằng ngành sản xuất trong nước đã bị thiệt hại đáng kể và thiệt hại đã bị gây ra bởi các tác động giá và lượng của hàng nhập khẩu từ các nước bị kiện. Phù hợp với thông lệ trước đây của mình, CQĐT coi trọng việc phân tích tác động giá và lượng để đưa ra kết luận về thiệt hại và mối quan hệ nhân quả và dựa vào việc phân tích price undercutting và kìm giá để đưa ra kết luận về mối quan hệ nhân quả.
+ Trong vụ việc CBPG với tấm in kỹ thuật số từ Trung Quốc, Nhật Bản (14/7/2011), kết luận của CQĐT cho thấy các chỉ số của ngành sản xuất trong nước đã hoạt động tốt hơn khi so sánh với những năm trước đó. Trên thực tế, không có dấu hiệu thiệt hại của 11/15 chỉ số thiệt hại. Thậm chí thị phần của ngành sản xuất trong nước tăng khi hàng nhập khẩu từ các nước bị kiện bắt đầu tăng. Trên thực tế, hàng nhập khẩu bị điều tra đã chiếm thị phần của các nước không bị điều tra khác, trong khi thị phần của ngành sản xuất trong nước không bị ảnh hưởng. CQĐT dựa kết luận về thiệt hại của mình chủ yếu trên cơ sở 3 yếu tố tài chính là tỷ suất lợi nhuận, luồng tiền mặt và ROI. Những yếu tố này dường như có trọng số cao hơn. Tuy nhiên, việc xem xét đầy đủ, hợp lý những yếu tố này có thể quan trọng hơn các yếu tố tăng trưởng như thế nào thì không thấy kết luận cuối cùng nói đến. Liên quan đến mối quan hệ nhân quả, CQĐT không thấy có hiện tượng price undercutting, price underselling của hàng nhập khẩu từ Nhật Bản, theo đó, CQĐT đã chấm dứt vụ điều tra với Nhật Bản do không có mối quan hệ nhân quả. Điều này phù hợp với thông lệ của CQĐT khi cho rằng không có mối quan hệ nhân quả nếu biên độ price undercutting và price underselling là âm.
+Vụ việc Di-sodium carbonate từ Nga và Thổ Nhĩ Kỳ (13/3/2011), CQĐT đã xem xét yếu tố thiệt hại và mối quan hệ nhân quả một cách rất chi tiết. Trước đó đã có lệnh áp thuế với cùng sản phẩm từ Kenya, Hoa Kỳ v v. Trong vụ việc này, CQĐT phân tích cả 15 yếu tố thiệt hại. Để chứng minh các xu hướng trong các yếu tố thiệt hại, số liệu của POI và 3 năm trước đó đã được sử dụng. Trong POI, chỉ 3 yếu tố thiệt hại trên 15 yếu tố cho thấy có thiệt hại rõ ràng; ít nhất 8 yếu tố thiệt hại cho thấy có sự tăng trưởng hoặc tăng trưởng tương đối; trong khi 5 yếu tố gần như không thay đổi. CQĐT kết luận có thiệt hại và mối quan hệ nhân quả chủ yếu dựa trên cơ sở price underselling, kìm giá và ép giá. CQĐT cũng lưu ý rằng lợi nhuận tiền mặt, tỷ suất lợi nhuận và ROCE suy giảm trong thời kỳ điều tra thiệt hại. Số liệu tài chính cho thấy rằng các chỉ số tài chính tăng trong POI mặc dù có thể đã giảm so với năm ban đầu. Sự tương quan trong việc tăng nhập khẩu từ những nước bị điều tra và sự suy giảm tỷ suất lợi nhuận của ngành sản xuất trong nước đã được coi là đủ để chứng minh thiệt hại và mối quan hệ nhân quả.
CQĐT rất có khả năng kết luận rằng có thiệt hại và mối quan hệ nhân quả nếu có hiện tượng underselling như trong vụ PTA-I và soda ash; ngược lại, như trong vụ tấm in kỹ thuật số và vòng bi, CQĐT có khả năng kết luận rằng không có mối quan hệ nhân quả nếu có hiện tượng price overselling. Nói cách khác, nếu CQĐT kết luận rằng trị giá nhập khẩu tại cảng của hàng nhập khẩu cao hơn NIP của ngành sản xuất trong nước, thì sẽ không coi là thiệt hại là do hàng nhập khẩu. Bên cạnh các tác động về giá và lượng, CQĐT quan tâm đặc biệt tới vấn đề liệu ngành sản xuất trong nước có mất thị phần vào thời điểm nhu cầu trong nước cho sản phẩm tăng. Ngoài ra, nếu lượng bán hàng trong nước giảm dẫn tới công suất sử dụng thấp hơn trong thời điểm cầu trong nước tăng như trong vụ Melamine, thì có thể coi là tác động trực tiếp của hàng nhập khẩu. Có thể suy luận là có mối quan hệ nhân quả trong trường hợp này.
Trong một số vụ việc, CQĐT so sánh các yếu tố thiệt hại trong POI với năm gốc và không nhất thiết là so sánh với năm trước đó. Như trong vụ lốp xe (14/9/2005) cũng như vụ máy dệt (14/25/2008), CQĐT lưu ý rằng một số yếu tốt thiệt hại đã bị suy giảm đáng kể khi so sánh với năm gốc. So sánh với năm gốc có thể chỉ ra sự suy giảm của các yếu tố thiệt hại mặc dù ngành sản xuất trong nước có thể đã hoạt động tốt hơn đáng kể trong POI khi so sánh với năm trước đó. Đặc biệt trong các vụ việc tự vệ, Ban Hội thẩm WTO và Cơ quan Phúc thẩm đã kết luận rằng việc so sánh đầu kỳ và cuối kỳ là không phù hợp khi phân tích xu hướng.
Có thể thấy khi xem xét các vụ việc trên thực tế của Ấn Độ không cho thấy việc thực thi thống nhất. Như Ban Hội thẩm trong vụ Thái Lan- Thép hình chữ H đã kết luận, CQĐT phải giải thích hợp lý và đầy đủ về việc mặc dù một số yếu tố thiệt hại có sự tăng trưởng nhưng vẫn có thể kết luận là có thiệt hại. Tuy nhiên, so sánh với giai đoạn I, có thể thấy trong giai đoạn II, CQĐT Ấn Độ đã phân tích hầu hết các yếu tố thiệt hại. Trong giai đoạn I, trung bình là dưới 10 yếu tố trong số 15 yếu tố đã được phân tích tại kết luận cuối cùng. Ngoài ra, kết luận cuối cùng và tạm thời trong giai đoạn II đã cung cấp số liệu đầy đủ hơn về xu hướng của các yếu tố thiệt hại. Ít nhất là về mặt hình thức việc phân tích thiệt hại đã được cải thiện. Tuy nhiên, có thể thấy CQĐT vẫn dựa vào phân tích định tính khi đưa ra kết luận về thiệt hại.
Cũng có thể thấy khi phân tích các vụ việc này là việc phân tích thiệt hại có thể vẫn có vấn đề. Trong hầu hết các vụ việc được xem xét, một số yếu tố thiệt hại đã cho thấy xu hướng tích cực, trong khi một số khác cho thấy xu hướng suy giảm. Trong một số vụ việc, hơn 10 yếu tố thiệt hại đã cho thấy có sự suy giảm, trong khi trong một số vụ việc khác chỉ 3 hoặc 4 yếu tố cho thấy sự thiệt hại. Nhưng kết luận cuối cùng đều cho thấy có thiệt hại trong những vụ việc này. Trọng tâm của vụ điều tra dường như giới hạn ở kìm giá và ép giá. Sự tập trung lớn dành cho các yếu tố như lợi nhuận, tỷ suất lợi nhuận, ROCE và dòng tiền. Xét ở một khía cạnh nào đó, công suất sử dụng hoặc tồn kho cũng đóng 1 vai trò nhất định. Tuy nhiên, nhìn chung, việc phân tích mà chỉ dựa trên price undercutting và price underselling sẽ có giới hạn. Price undercutting không nhất thiết là do hàng nhập khẩu, trong khi price underselling gần như là không thể tránh được khi NIP được tính toán dựa trên các giải định. Vấn đề chính là thiệt hại đáng kể và mối quan hệ nhân quả được chứng minh như thế nào trong những trường hợp như vậy. Nói cách khác, vai trò của các yếu tố như lao động, lương, bán hàng, v v là gì trong khi ít khi được xem xét chi tiết trong hầu hết các vụ việc.
Việc xem xét các kết luận điều tra của Ấn Độ cho thấy rằng có sự khó khăn trong việc đánh giá một số yếu tố thiệt hại. Trong số 15 yếu tố thiệt hại, xu hướng ở khoảng 10 yếu tố là rõ ràng. Tuy nhiên, một số yếu tố là không rõ ràng, ví dụ như tăng trưởng, khả năng tăng vốn và các yếu tố ảnh hưởng đến giá. Không rõ là yếu tố tăng trưởng sẽ được xem xét liên quan đến sản xuất, bán hàng trong nước hay công suất sử dụng. Khả năng tăng vốn có thể được diễn giải bằng rất nhiều cách. CQĐT xem xét tỷ suất lợi nhuận của ngành sản xuất trong nước trong khi ADA lại nói đến thuật ngữ “lợi nhuận”. Hai thuật ngữ này có ý nghĩa khác nhau. Mặc dù bán phá giá là một yếu tố trong việc xem xét thiệt hại, vai trò của biên độ thiệt hại là không rõ ràng. Đặc biệt do Ấn Độ tính toán biên độ thiệt hại trong tất cả các vụ việc, biên độ thiệt hại có thể có một vai trong trong tính toán thiệt hại. Như trong vụ việc PTA-I và tấm in kỹ thuật số, biên độ thiệt hại âm dẫn tới việc kết luận là không có mối quan hệ nhân quả.
- Vấn đề phân tích các yếu tố khác gây thiệt hại: Đây là vấn đề quan trọng khi phân tích thiệt hại và mối quan hệ nhân quả. Ban Hội thẩm WTO và Cơ quan Phúc thẩm đã đưa ra phán quyết không ủng hộ một số vụ điều tra PVTM do không phân tích vấn đề này một cách thoả đáng. WTO yêu cầu CQĐT phải phân biệt và tách thiệt hại gây ra bởi các yếu tố khác ngoài hàng nhập khẩu phá giá/trợ cấp/tăng đột biến. Mặc dù nghĩa vụ này đã có quy định tại các Hiệp định liên quan kể từ năm 1995, quy định này chỉ được để ý sau khi có phán quyết của vụ việc Hoa Kỳ- Thép cuộn cán nóng (Nhật Bản) năm 2001.
Trong các vụ việc CBPG của Ấn Độ ở giai đoạn I, rõ ràng là CQĐT hiếm khi xem xét sự tồn tại của các yếu tố khác gây thiệt hại cho ngành sản xuất trong nước. Hầu hết các vụ việc được xem xét trong giai đoạn I thậm chí là không có mục này. Ví dụ trong vụ vải acrylic (4/1/98), có bằng chứng cho thấy là ngành sản xuất bị thiệt hại trong nhiều năm do nguyên liệu thô không sẵn có trong nước và phải nhập khẩu. Và cũng rõ ràng là sợi acryluc được nhập khẩu vào Ấn Độ mà không phải chịu thuế nhập khẩu theo Hiệp ước Indo-Nepal, theo đó ngành sản xuất trong nước của Ấn Độ phải trả thuế nhập khẩu đối với nguyên liệu thô nhập khẩu. Ngoài ra, kể cả nếu các yếu tố khác có được xem xét, thì nó liên quan tới việc liệu ngành sản xuất trong nước có chịu thiệt hại đáng kể hay không mà không trong bối cảnh về mối quan hệ nhân quả. Ví dụ, CQĐT đáng lẽ phải nhắc đến việc giảm nhu cầu, hạn chế của ngành sản xuất trong nước trong việc tăng công suất hoặc năng suất khi phân tích 15 yếu tố thiệt hại chứ không phải khi phân tích các yếu tố khác (non-attribution).
Trong giai đoạn I, CQĐT chỉ nhắc đến một số yếu tố được biết mà không phải là phân tích hầu hết hoặc tất cả các yếu tố này. Điều thú vị là, thậm chí khi CQĐT nhắc đến một số yếu tố được nêu, tầm quan trọng của các yếu tố này lại không được chú ý. Ví dụ, trong vụ việc với cồn acyclic (63/1/2001), CQĐT bỏ qua 2 yếu tố được biết đến như sau: sự suy giảm cầu không rõ và không có sự phát triển công nghệ trong ngành hoặc không có yếu tố nào mà có thể dẫn tới thiệt hại cho ngành sản xuất trong nước” và không có phân tích nào thêm về tầm quan trọng của các yếu tố này.
Trong giai đoạn II, có thể thấy có sự khác biệt về lượng trong việc phân tích các yếu tố được biết. Ví dụ, trong vụ giấy bồi (14/7/2003), CQĐT đã phân tích hầu hết các yếu tố được nêu, ngoại trừ yếu tố lượng và giá hàng nhập khẩu không bán phá giá. Trong vụ Tấm in kỹ thuật số (14/7/2011), CQĐT xem xét các yếu tố được biết khác nhau. Phân tích này rất ngắn. CQĐT cũng lưu ý trong kết luận cuối cùng về báo cáo của Cơ quan Phúc thẩm trong vụ EC- Ống thép và phụ kiện trong đó có nêu :...các báo cáo của Ban Hội thẩm và Cơ quan Phúc thẩm trước đây đã nêu rõ là trong khi CQĐT phải xem xét tác động của các yếu tố khác mà CQĐT được biết mà có thể gây thiệt hại cho ngành sản xuất trong nước, không phải tiến hành phân tích”.
Trong vụ Tấm in kỹ thuật số, CQĐT xem xét các yếu tố được biết khác như sự gia tăng trong chi phí nguyên liệu thô sau khi áp thuế tự vệ với một trong những đầu vào là nhôm, đầu tư thêm của ngành sản xuất trong nước và thực tế là giá bán thuần của ngành sản xuất tỏng nước cao hơn NIP. CQĐT đã kết luận thiệt hại và mối quan hệ nhân quả chủ yếu trên cơ sở là lượng hàng nhập khẩu từ các nước bị kiện đã tăng trong POI và rằng giá nhập khẩu thấp hơn đã gây ra ép giá mà đã tác động bất lợi tới tình hình hoạt động của ngành sản xuất trong nước. CQĐT đã dựa vào sự suy giảm trong lợi nhuận và ROI để chứng minh kết luận của mình về thiệt hại và mối quan hệ nhân quả. Cũng rõ ràng từ việc xem xét các vụ kiện bao gồm vụ Tấm in kỹ thuật số là, không giống các vụ việc trước, CQĐT đã xem xét tất cả các yếu tố được nêu và một số yếu tố được biết khác khi phân tích non-attribution. Tuy nhiên, từng yếu tố này chỉ được giới thiệu và sau đó thì không được xem xét.
Trong vụ Lốp xe tái chế từ Trung Quốc và Thái Lan (14/9/2005), các bên liên quan đã lập luận rằng thiệt hại bị cáo buộc là do cạnh tranh trong nước, không có sẵn nguyên liệu thô và sự gia tăng mạnh về giá của nguyên liệu thô, xuất khẩu cao su tự nhiên bởi nhà sản xuất trong nước và việc áp thuế AD đối với nguyên liệu thô chính nhập khẩu. Có sự vượt cung trong thị trường mà có thể đã gây ra thiệt hại. Đúng là đây là một yếu tố mà tác động thiệt hại của nó đáng lẽ đã nên được xem xét kỹ càng và tách khỏi tác động của hàng nhập khẩu. Vụ việc này cho thấy việc CQĐT không muốn xem xét ngoài các yếu tố được biết được nêu khi phân tích non-attribution.
Trong vụ việc CBPG với soda ash (14/3/2011), CQĐT cũng tiến hành phân tích non-attribution. Từng yếu tố được nếu đã được nhắc đến một cách ngắn gọn. Trong khi xem xét các yếu tố này, CQĐT lưu ý rằng thiệt hại với ngành sản xuất trong nước là do công suất vượt quá, nhưng kết luận rằng các yếu tố được nêu không gây thiệt hại cho ngành sản xuất trong nước. Đây cũng là một kết luận hết sức ngắn gọn.
Có vẻ như là phân tích non-attribution được tiến hành trong hầu hết các vụ trên cơ sở pro forma mà không phân tích sâu. Thường là khó để hiểu các tác động thiệt hại của một số yếu tố và liệu nó có tác động gì tới mối quan hệ nhân quả đã được xác định. Sẽ là hữu ích khi có phân tích chi tiết về các dữ kiện phức tạp và các lập luận kinh tế khi xem xét “các yếu tố khác”. Theo đó, nên xem xét báo cáo của Ban Hội thẩm trong vụ EC-DRAM, mặc dù kết luận là liên quan đến vấn đề thiệt hại và mối quan hệ nhân quả theo Hiệp định SCM, cụ thể như sau: việc CQĐT chỉ “đánh dấu” là chưa đủ. CQĐT phải làm nhiều hơn là chỉ nêu các yếu tố được biết và bác bỏ vai trò của chúng chỉ bằng các khẳng định về mặt định tính, ví dụ như “yếu tố này không gây ra thiệt hại” hay “yếu tố này không phá vỡ mối quan hệ nhân quả giữa hàng nhập khẩu và thiệt hại’. Chúng tôi cho rằng, CQĐT phải cố gắng hơn để lượng hoá tác động của các yếu tố được biệt này, so sánh tương quan với hàng nhập khẩu, tốt nhất là sử dụng các mô hình cơ bản. Ít ra là quy định tại Điều 15.5 Hiệp định SCM yêu cầu CQĐT giải thích một cách thoả đáng bản chất và mức độ của tác động thiệt hại của các yếu tố khác, phân biệt với tác động thiệt hại của hàng nhập khẩu.
Có thể thấy rằng, trái ngược với giai đoạn I, trong giai đoạn II, ít ra là CQĐT Ấn Độ có nhắc nhiều hơn đến hầu hết các yếu tố thiệt hại. Một số số liệu thực sự đã được nhắc đến trong kết luận cuối cùng, mặc dù cũng chưa đáp ứng được yêu cầu của WTO như trong vụ Hoa Kỳ- Thép cuộn nóng đã nêu. Cần phải xem xét các yếu tố về mối quan hệ nhân quả này đã tác động lẫn nhau như thế nào để phân tích tác động và mối liên quan của các yếu tố này với thiệt hại bị gây ra. Những vụ việc điển hình trong giai đoạn này chỉ nhắc đến 1-2 câu về vai trò và tác động của các yếu tố này, điều này là chưa đủ, chưa phải là phân tích các dữ kiện mà chỉ là đoán các dữ kiện. Cũng cần lưu ý là, bên cạnh 7 yếu tố được liệt kê, các vụ việc của Ấn Độ thường không xem xét vai trò của các yếu tố khác mà cùng lúc cũng gây thiệt hại cho ngành sản xuất trong nước. Các yếu tố này không được xem xét có thể là do các bên không nêu được các yếu tố này vào thời điểm thích hợp. Tuy nhiên, việc không xem xét các yếu tố khác này khiến có cảm giác là không có các yếu tố về mối quan hệ nhân quả khác ngoài nguyên nhân là hàng nhập khẩu. Điều này ngụ ý là hàng nhập khẩu là nguyên hân của thiệt hại và giả định rằng không có nguyên nhân nào khác đã gây ra thiệt hại cho ngành sản xuất trong nước. Thông thường là, các ngành bị cáo buộc là có thiệt hại có thể là do các yếu tố như tăng chi phí vốn, nguyên liệu thô, các yếu tố kinh tế vĩ mô, điều kiện kinhh tế toàn cầu, các quyết định quản lý v v. Danh sách này có thể dài không giới hạn. Nhưng việc bác bỏ hoặc không xem xét vai trò của các yếu tố khác là tương ứng với việc không xem xét mối quan hệ nhân quả. Trong hầu hết các vụ giải quyết tranh chấp tại WTO đã xem xét nhiều known factors mà có thể gây thiệt hại. Và Ấn Độ chỉ giới hạn việc xem xét của mình trong các yếu tố này, kể cả trong giai đoạn sau 2003.
Cũng rõ ràng từ việc xem xét các vụ việc trong giai đoạn II là CQĐT đã không sử dụng phân tích hồi quy hoặc các công cụ số liệu như phân tích mối quan hệ nhân quả theo granger nhằm mục đích tách biệt hoặc lượng hoá thiệt hại của ngành sản xuất trong nước. Các vụ việc được xem xét đã không sử dụng bất kỳ công cụ lượng hoá nào. Tuy nhiên, xét một cách lạc quan, trong giai đoạn II, CQĐT đã bắt đầu xem xét xu hướng 4 năm (bao gồm POI và 3 năm trước đó) cũng như danh sách các yếu tố được biết bắt buộc theo quy định tại Điều 3.5 và 15.5 ADA và Hiệp định SCM.
- Xem xét phúc thẩm vấn đề thiệt hại và mối quan hệ nhân quả tại Ấn Độ: Mục 9C Đạo luật Thuế quan 1975 (sửa đổi) quy định cơ chế để kháng cáo các quyết định do Bộ Tài chính ban hành về việc thực thi kết luận của CQĐT. Theo đó, CESTAT là toà theo luật định có thể xem xét các vụ kháng cáo về kết luận của CQĐT.
Các toà hiến pháp như Toà thượng thẩm (High courts) và Toà Tối cao tại Ấn Độ đã xét xử tương đối nhiều vụ việc về vấn đề này. Thậm chí là Toà Phúc thẩm (CESTAT) cũng vậy. Ví dụ, trong vụ Nhà máy sản xuất máy xây dựng hạng nặng Urals kiện CQĐT về vụ việc cuộn thép induction hardened forged, CESTAT đã công nhận kết luận của CQĐT. Trong vụ việc này, CQĐT đã lưu ý rằng một số chỉ số thiệt hại như bán hàng, sản xuất, lợi nhuận, tồn kho, và công suất của ngành sản xuất trong nước đã tăng trưởng. Trong khi CESTAT công nhận rằng có sự tăng trưởng, họ lại ủng hộ kết luận của CQĐT rằng thiệt hại đã xảy ra do giá bán thấp hơn giá đủ bù đắp chi phí. Vụ việc này cho thấy rõ rằng rằng bằng chứng về price undercutting và price underselling có tác động bao trùm trong việc chứng minh thiệt hại và mối quan hệ nhân quả.
Chỉ trong một số giới hạn các vụ việc mà Toà phúc thẩm xem xét vấn đề chứng minh mối quan hệ nhân quả. Trong vụ việc Hiệp hội các nhà sản xuất refractory kiện CQĐT, CESTAT kết luận rằng nếu hàng nhập khẩu không và không hteer gây ra thiệt hại cho ngành sản xuất trong nước, việc áp thuế CBPG là không hợp lý. Trong vụ này, DBG (dead burnt magnesite) dưới 4% silica được nhập khẩu bởi người dùng trong nước của Ấn Độ là khác với DBM sản xuất tại Ấn Độ. Tương tự như vậy, trong vụ liên quan đến strontium carbonate, dưới dạng hạt nhập khẩu từ Trung Quốc, CESTAT cũng kết luận rằng việc nhập khẩu hàng này không gây thiệt hại cho ngành sản xuất trong nước vì sản xuất dưới dạng bột. CESTAT do đó đã bác bỏ kết luận của CQĐT.
Trong vụ Agfa Gevaert A.G kiện CQĐT, CESTAT đã xem xét đơn kiện bởi các nhà xuất khẩu nước ngoài rằng thuế CBPG áp với hàng nhập khẩu (giấy ảnh trắng đen) là không chứng minh được mối quan hệ nhân quả. Chỉ có 2 nhà sản xuất trong đó 1 nhà sản xuất là người mới gia nhập thị trường và một là nhà sản xuất không hiệu quả. CQĐT đã loại bỏ nhà sản xuất mới gia nhập thị trường và tính toán thiệt hại dựa trên số liệu của nhà sản xuất không hiệu quả. Tuy nhiên, CESTAT kết luận rằng CQĐT đã sử dụng số liệu của nhà sản xuất bị loại bỏ để tính toán NIP. CESTAT kết luận rằng mối quan hệ nhân quả không được chứng minh do nhà sản xuất trong nước duy nhất đã bị lỗ kể cả trước khi nhập khẩu gia tăng.
Trong một số vụ việc, CESTAT cho rằng không thể bác bỏ kết luận của CQĐT mà không có bằng chứng rõ ràng, ví dụ khi price undercutting và price underselling được tính toán đầy đủ hợp lý thì không thể bác bỏ kết luận của CQĐT (như trong vụ Sasol-Solvents).