Quy trình điều tra chống lẩn tránh thuế của EU

1. Khởi xướng điều tra và đăng kí nhập khẩu

(i) Khởi xướng điều tra

- Dựa trên đơn yêu cầu: Sau khi đơn yêu cầu được nộp tới CQĐT (bởi một nước thành viên hoặc nhà sản xuất EU), EC sẽ xem xét đơn yêu cầu và quyết định khởi xướng trong trường hợp kiểm tra thấy rằng có chứng cứ đủ để chứng minh hành vi lẩn tránh thuế (5 điều kiện). Trong trường hợp nhà sản xuất EU nộp đơn, không cần đáp ứng yêu cầu về tính đại diện (standing)[1] như trong cuộc điều tra ban đầu và rà soát cuối kỳ. Việc khởi xướng điều tra phải được thực hiện chậm nhất là 45 ngày kể từ ngày nhận được đơn yêu cầu điều tra.

- Tự khởi xướng: EC có thể tự khởi xướng nếu thấy cần thiết.

EC có trách nhiệm phải thông báo cho các nước thành viên khi nhận được đơn yêu cầu khởi xướng/tự khởi xướng. Ủy ban tư vấn về chống bán phá giá và chống trợ cấp (Advisory Committee) bao gồm đại diện của các nước thành viên EU sẽ được tham vấn trước khi EC khởi xướng điều tra.

Thông báo khởi xướng điều tra được đăng trên Công báo của EU.

(ii) Đăng ký nhập khẩu: Theo Điều 13(4) và Điều 14(5) Luật chống bán phá giá và Điều 23(3), 24(5) Luật chống trợ cấp.

Vào thời điểm khởi xướng điều tra chống lẩn tránh, hàng hóa nhập khẩu bị điều tra phải được đăng kí nhập khẩu (bởi nhà sản xuất hoặc nhà nhập khẩu nếu hành vi lẩn tránh bị cáo buộc được thực hiện tại EU) (hoặc có thể yêu cầu bảo lãnh). EC, sau khi tham vấn với Uỷ ban Tư vấn, hướng dẫn cơ quan hải quan về việc đăng ký hoặc đảm bảo cho hàng nhập khẩu. ‘Hệ thống đăng ký’ nhằm mục đích đưa ra ngày cụ thể để áp thuế chống lẩn tránh.

Trong hầu hết các vụ việc điều tra chống lẩn tránh thuế, ngay cả trong các vụ việc do EC tự khởi xướng, việc đăng ký nhập khẩu được thực hiện đồng thời với thời gian khởi xướng điều tra nhằm đảm bảo việc truy thu thuế, trong trường hợp hành vi lẩn tránh thuế được xác định. Việc đăng ký có thể chỉ giới hạn ở một phần của sản phẩm bị điều tra (ví dụ trong vụ Xe đạp từ Trung Quốc, cuộc điều tra chống lẩn tránh liên quan đến một số bộ phận nhưng việc đăng ký chỉ giới hạn ở 4 bộ phận chính). Có thể yêu cầu loại trừ đăng ký trong vòng 37 ngày kể từ ngày khởi xướng điều tra.

Cần có bằng chứng đầy đủ để đăng ký cho hàng nhập khẩu. EC sẽ xem xét liệu việc đồng ý cho đăng ký, dựa trên yêu cầu từ ngành sản xuất trong nước, có cần thiết hay không khi xác định việc khởi xướng điều tra chống lẩn tránh. EC sau đó sẽ công bố quy định chỉ ra mục đích của việc đăng ký và khoản tiền dự tính phải nộp. Việc đăng ký thông thường không dài hơn 9 tháng.

2. Bản câu hỏi điều tra

(i) Gửi bản câu hỏi điều tra tới các bên liên quan

Trong vòng 15 ngày kể từ ngày khởi xướng, EC phải gửi bản câu hỏi điều tra tới các bên liên quan. Thời hạn các bên liên quan gửi bản trả lời: trong vòng 37 ngày kể từ ngày khởi xướng điều tra.

Cơ quan điều tra có thể chọn mẫu để điều tra hoặc có thể không chọn mẫu mà điều tra tất cả các nhà sản xuất/xuất khẩu. Trong trường hợp không chọn mẫu, tất cả các nhà sản xuất đều phải tham gia trả lời bản câu hỏi điều tra nếu muốn đạt được kết quả tích cực.

Thời hạn gửi bình luận, yêu cầu tổ chức phiên điều trần: trong vòng 37 ngày kể từ ngày khởi xướng điều tra.

Các bên liên quan muốn được tham gia vào cuộc điều tra (các nhà xuất khẩu và nhập khẩu) có thể tự trình báo với EC trong vòng 15 ngày kể từ ngày khởi xướng điều tra và yêu cầu được gửi và trả lời bản câu hỏi điều tra. Các bên liên quan này cũng phải nộp bản trả lời bản câu hỏi điều tra trong vòng 37 ngày kể từ ngày khởi xướng điều tra và có thể yêu cầu tổ chức phiên điều trần trong thời gian này. EC sẽ tiến hành thẩm tra tại chỗ với các bên này. EC sẽ gửi một bản báo cáo điều tra (disclosure) cho các bên này và họ sẽ có cơ hội bình luận.

Bên nộp đơn yêu cầu điều tra không phải trả lời bản câu hỏi điều tra.

(ii) Nộp đơn xin hưởng loại trừ

Việc nộp đơn xin hưởng loại trừ được quy định tại Điều 13(4) của Luật chống bán phá giá và Điều 23(3) của Luật chống trợ cấp.

Trong vòng 37 ngày kể từ ngày khởi xướng điều tra, các bên liên quan có quyền nộp đơn xin hưởng loại trừ (kể cả đề nghị loại trừ đăng ký) cùng với các bằng chứng chứng minh sản phẩm của họ không lẩn tránh thuế ban đầu. Việc loại trừ là cho từng công ty.

Yêu cầu loại trừ có thể được thực hiện bởi:

  • nhà sản xuất hoặc nhà nhập khẩu, nhà lắp ráp hoặc trong một số trường hợp đặc biệt là các công ty thương mại (nếu hành vi lẩn tránh thuế được thực hiện trên lãnh thổ EU).
  • nhà sản xuất xuất khẩu ở nước X (nước bị áp thuế) hoặc nước thứ 3 (nếu hành vi lẩn tránh thuế được thực hiện ngoài EU).

Việc loại trừ được cấp cho các nhà sản xuất nước ngoài của sản phẩm bị nghi ngờ mà không liên quan đến bất kỳ nhà sản xuất nào đang chịu lệnh áp thuế và không tiến hành hành vi lẩn tránh hoặc cho nhà nhập khẩu mà không liên quan tới nhà sản xuất đang chịu lệnh áp thuế.

Một nhà xuất khẩu mới có thể xin miễn trừ sau cuộc điều tra chống lẩn tránh thuế theo “nguyên tắc rà soát nhà xuất khẩu mới”.

Trong trường hợp việc loại trừ được cấp cho một công ty trong quá trình điều tra, công ty này sẽ không phải trả thuế mở rộng trong tương lai và việc đăng ký nhập khẩu của công ty này cũng kết thúc mà không phải đóng thuế hồi tố.

Cần lưu ý rằng việc loại trừ cũng có thể bị bác bỏ nếu EC phát hiện ra rằng bên được loại trừ đang lẩn tránh thuế hoặc vi phạm các nghĩa vụ của họ. Trường hợp ngoại lệ, vụ Coumarin từ Trung Quốc: nhà xuất khẩu Ấn Độ nhập khẩu coumarin từ Trung Quốc, làm sạch và xuất khẩu sang EU. Bên cạnh đó, nhà xuất khẩu này cũng sản xuất coumarin ở Ấn Độ và xuất khẩu sang EU. Do việc xác định nguồn gốc xuất xứ của sản phẩm (Trung Quốc hay Ấn Độ) là khó khăn và do sản phẩm có thể có nấm, EC đã chấp nhận cam kết giá và công ty có thể bán sản phẩm xuất xứ Ấn Độ với mức giá trần nhất định (dựa trên lượng xuất khẩu trong thời kỳ điều tra chống lẩn tránh thuế) mà không phải nộp thuế chống lẩn tránh. Ngoài ra, công ty cũng không bị áp thuế hồi tố dù phải đăng ký.

Công ty xin hưởng loại trừ cũng phải trả lời một bản câu hỏi điều tra và phải tham gia thẩm tra (nếu cần thiết).

Đơn đề nghị loại trừ phải được nộp trong khoảng thời gian quy định tại thông báo khởi xướng điều tra. EC, sau khi tham vấn với Uỷ ban Tư vấn, sẽ xác định liệu việc loại trừ đó có được phép trong giai đoạn đăng ký. Tuy nhiên, quyền đưa ra kết luận này sẽ được EC thực hiện nếu đơn kiện được nộp trong giai đoạn áp thuế.

Việc nộp đơn xin hưởng loại trừ cũng có thể được thực hiện sau khi áp thuế chống lẩn tránh (mở rộng áp thuế CBPG/CTC) (đối với các doanh nghiệp không xuất khẩu trong thời kỳ điều tra và các doanh nghiệp khác). Nếu được cấp loại trừ, thuế không được thu từ ngày yêu cầu loại trừ.

Trong trường hợp loại trừ được cấp, hàng nhập khẩu từ nhà xuất khẩu được loại trừ sẽ không phải nộp thuế nếu có hoá đơn thương mại hợp lệ bao gồm tất cả các yếu tố mà EC thường yêu cầu tại Phụ lục quyết định mở rộng biện pháp (tên công ty, mô tả chính xác hàng hoá, xác nhận bởi công ty là hàng do chính công ty sản xuất).

Sau một năm kể từ khi áp dụng biện pháp chống lẩn tránh thuế, và trong trường hợp số lượng các bên yêu cầu hoặc có thể yêu cầu loại trừ là nhiều đáng kể, EC có thể khởi xướng rà soát chống lẩn tránh thuế  và phải kết thúc trong 15 tháng. Khi đó, EC điều tra xem liệu hành vi lẩn tránh có đang tiếp tục và cũng phải kiểm tra các phép thử (60% và 25%) như cuộc điều tra lẩn tránh ban đầu. Bên cạnh đó, EC cũng xem xét liệu việc không tồn tại hành vi lẩn tránh có phải là mang bản chất lâu dài.

3. Thẩm tra tại chỗ

Các nhà xuất khẩu/nhập khẩu sau khi nộp bản trả lời bản câu hỏi điều tra sẽ tham gia cuộc thẩm tra tại chỗ (thời gian theo sắp xếp của EC).

4. Ban hành báo cáo cuối cùng

Sau khi EC công bố báo cáo cuối cùng, các bên liên quan được quyền bình luận.

5. Kết luận cuối cùng (trong vòng 9 tháng kể từ ngày khởi xướng)

- Kết luận cuối cùng phủ định (không có hành vi lẩn tránh thuế): các doanh nghiệp được tiếp tục xuất khẩu vào EU theo biểu thuế quan thông thường.

- Kết luận cuối cùng khẳng định (có hành vi lẩn tránh thuế): thuế CBPG/CTC đang áp với nước bị điều tra trong vụ việc ban đầu được mở rộng sang nước bị điều tra chống lẩn tránh thuế kể từ ngày đăng kí nhập khẩu.

Mức thuế chống lẩn tránh (theo Điều 13.1 quy định về phá giá và Điều 23.1 quy định về chống trợ cấp): nếu kết luận có hành vi lẩn tránh, mức thuế cao nhất có thể áp là mức thuế “dành cho các nhà xuất khẩu khác” áp trong cuộc điều tra ban đầu với hàng nhập khẩu từ nước X. Trong trường hợp lẩn tránh bởi công ty có mức thuế riêng rẽ thấp thì công ty lẩn tránh sẽ phải chịu mức thuế chung và không còn được lợi từ mức thuế riêng rẽ. Trong trường hợp nhập khẩu linh kiện, thuế sẽ được áp cho trị giá của các linh kiện nhập khẩu bởi công ty gia công, lắp ráp.

Không có giới hạn thời gian đối với việc áp dụng biện pháp chống lẩn tránh thuế (thông thường biện pháp chống lẩn tránh thuế chấm dứt nếu biện pháp chống bán phá giá/chống trợ cấp ban đầu hết hiệu lực).

- Rà soát: Nếu EC kết luận trong kết quả rà soát điều tra thuế CBPG/CTC (rà soát giữa kỳ hoặc rà soát cuối kỳ, hoặc kết hợp rà soát giữa kỳ và cuối kỳ) cho thấy thuế CBPG/CTC hiện tại cần được giữ nguyên/sửa đổi, thì thuế chống lẩn tránh thuế CBPG/CTC sẽ được giữ nguyên/sửa đổi tương ứng. Việc rà soát biện pháp chống lẩn tránh thuế sẽ được tiến hành sau ít nhất 1 năm. Không có rà soát cuối kỳ biện pháp chống lẩn tránh thuế.

Nhận xét: Mặc dù quy định là thủ tục của một vụ điều tra CBPG/CTC có thể được áp với một vụ điều tra chống lẩn tránh thuế, nhưng hai loại điều tra này cũng có các quy định khác nhau, đặc biệt là trong giai đoạn điều tra. Điều tra phá giá/trợ cấp và điều tra thiệt hại được tiến hành riêng rẽ trong một vụ điều tra CBPG/CTC. Tuy nhiên, điều tra chống lẩn tránh thuế tập trung vào việc liệu hành vi lẩn tránh có đã xảy ra hay không.

Một số vấn đề lưu ý

- Quy định hiện hành của EU có định nghĩa về lẩn tránh (Điều 13:1 của Quy định 1036 về CBPG và Điều 23:3 của Quy định 1037 về CTC). Với quy định quét này, cơ quan điều tra có quyền rất lớn để áp dụng một biện pháp cụ thể đối với bất kỳ hành vi nào bị cáo buộc là lẩn tránh. Mặc dù Điều 13:1 và Điều 23:3 quy định rõ một số loại lẩn tránh (bao gồm thay đổi nhỏ sản phẩm, chuyển tải qua nước thứ 3, cấu trúc lại cách thức và kênh bán hàng; và riêng với Điều 13:1 có thêm hoạt động lắp ráp), rõ ràng là bất kỳ hành vi lẩn tránh nào khác, ngoài các hành vi nêu ở trên, cũng thuộc phạm vi điều chỉnh của Điều 13:1 và Điều 23:3, theo như lời văn của Điều này. Hơn nữa, lời văn của Điều 13:1 và Điều 23:3 không rõ ràng do thiếu các tiêu chí hoặc hướng dẫn cụ thể về các loại lẩn tránh cụ thể. Tình huống này tồn tại mặc dù thực tế là tên của một số loại hành vi lẩn tránh đã được quy định tại lời văn Điều 13:1 và Điều 23:3. Việc thiếu các chi tiết cùng với thẩm quyền do quy định quét nêu ra đã khiến cho cơ quan điều tra có tầm kiểm soát không bị hạn chế trong các cuộc điều tra chống lẩn tránh. Tuy nhiên, mặt khác, thẩm quyền không bị hạn chế này cũng cho phép một mức độ linh hoạt nhất định. Điều này sẽ dẫn tới việc nhà xuất khẩu/sản xuất nước ngoài sẽ dễ bị “dính”. Nếu xét sơ bộ thì quy định hiện tại của EU không mâu thuẫn trực tiếp với các nguyên tắc hiện tại của WTO. Do WTO không có quy định về chống lẩn tránh thuế, và do đó thiếu những tiêu chuẩn chi tiết để đánh giá mặt được, chưa được của quy định EU.

- Quy định về hệ thống đăng ký cho phép áp thuế CBPG/CTC hồi tố trong trường hợp có lẩn tránh. Theo hệ thống này, hàng nhập khẩu có thể phải đăng ký sau khi có yêu cầu từ ngành sản xuất của EU mà có đủ bằng chứng để yêu cầu đăng ký, và việc mở rộng biện pháp CBPG/CTC do đó được áp dụng từ ngày mà áp dụng việc đăng ký. Tuy nhiên, luật không chỉ rõ là khi nào thì có thể đăng ký. Hơn nữa, việc áp dụng hồi tố cũng mâu thuẫn với quy định AD hiện hành liên quan đến vấn đề hồi tố (chỉ hồi tố với rà soát nhà xuất khẩu mới theo Điều 9.5 ADA, nhập khẩu ồ ạt hàng phá giá  theo Điều 10.6 và 10.7 ADA)[2] hoặc nhập khẩu ồ ạt hàng trợ cấp theo Điều 20.6 SCMA). Quy định hồi tố trong chống lẩn tránh thuế sẽ dẫn tới phạm vi áp hồi tố rộng hơn ADA, SCMA.

- Một vấn đề nữa là bên nào có nghĩa vụ cung cấp bằng chứng. Quy định EU ngầm hiểu rằng đó là trách nhiệm của cơ quan có thẩm quyền trong việc xác định có hành vi lẩn tránh. Tuy nhiên, nhà xuất khẩu/sản xuất bị nghi ngờ trên thực tế thường bị yêu cầu cung cấp bằng chứng để chứng minh “vô tội”. Nghĩa vụ cung cấp bằng chứng do đó đã bị chuyển từ cơ quan có thẩm quyền sang bị đơn. Do đó, bị đơn bị coi là “có tội” trước khi cơ quan điều tra ra kết luận, điều này là vi phạm quy định về pháp quyền.

- Thủ tục loại trừ: giống như thủ tục đăng ký, chủ yếu phụ thuộc vào quyền tự quyết của cơ quan điều tra. Tuy nhiên, không có hướng dẫn chi tiết về thủ tục, thì có nguy cơ tiềm ẩn là cơ quan điều tra lạm dụng thủ tục này và do đó lạm dụng việc áp dụng biện pháp chống lẩn tránh thuế. Ngoài ra, thẩm quyền không hạn chế cũng có thể ảnh hưởng đến các nhà vận động chính sách xuất hiện khi xác định liệu việc loại trừ có nên được chấp nhận hay không. Có thể cơ quan điều tra sẽ phải xem xét và cân đối quyền lợi của các bên liên quan khác nhau. Khả năng do đó khiến cho Điều 13 (4) của quy định 2016/1036, Điều 23 (6) Quy định 2016/1037 (thủ tục loại trừ) và Điều 13(1) của Quy định 2016/1036, Điều 23 (1)-(3) Quy định 2016/1037 (quy định chung) và Điều 13(2) của Quy định 2016/1036 (hoạt động gia công) cho phép EC có cơ hội để ‘sửa sai’ cho những quyết định về lẩn tránh của mình, điều này được coi như là một van an toàn cho EU khi xử lý các mối quan hệ với những đối tác chính của họ. Thủ tục loại trừ tại quy định chống lẩn tránh thuế hiện hành của EU cho phép một số hàng nhập khẩu/nhà nhập khẩu/nhà sản xuất nước ngoài có thể thoát khỏi biện pháp chống lẩn tránh thuế. Mặc dù vậy, quan ngại về thủ tục này là việc cơ quan có thẩm quyền có thể xác định như thế nào về việc liệu việc miễn trừ nên được áp cho một số bên liên quan trong vụ điều tra chống lẩn tránh thuế, mà không có tiêu chí cụ thể quy định. Vấn đề này do đó dẫn đến quan ngại rằng liệu cơ quan điều tra có thẩm quyền quá rộng hay không.

- Một quan ngại nữa liên quan đến quy định của EU về chống lẩn tránh thuế là liệu những quy định này có quan hệ gì với Điều 12 ‘quy định về việc chống bị thất thu thuế CBPG (anti-absorption) của Quy định 2016/1036 (không có quy định tương ứng về CTC). Điều 12 (1) xác định hành vi absorption là: sau giai đoạn điều tra ban đầu và trước hoặc sau khi áp biện pháp, giá xuất khẩu đã giảm hoặc không có sự thay đổi, hoặc sự thay đổi là không đủ trong giá bán lại hoặc giá bán sau đó của sản phẩm nhập khẩu tại EU. Quy định này liên quan đến tình hình khi các nhà xuất khẩu trực tiếp hoặc gián tiếp chịu thuế CBPG ban đầu, do đó, giảm giá xuất khẩu hoặc dẫn tới việc không có sự thay đổi (tăng giá bán lại) hoặc tăng giá không đủ. Hành vi này do các nhà xuất khẩu thực hiện và được gọi là hành vi hấp thu thuế (‘absorption’). Theo đó, nhà xuất khẩu có xu hướng giảm giá xuất khẩu mà đáng lẽ phải tăng giá sau khi bị áp thuế CBPG bằng cách ‘hấp thu’ (absorb) khoản thuế đó. Biên độ phá giá, mà được tính là sự chênh lệch giữa giá xuất khẩu và trị giá thông thường của sản phẩm, do đó đã gia tăng. Do mục đích của thuế CBPG (được tính toán dựa trên biên độ phá giá) là để giá xuất khẩu tăng thông qua việc áp thuế, do đó làm giảm hoặc loại bỏ biên độ phá giá, hành vi absorption này đã khiến cho thuế CBPG trở nên vô hiệu. Kết quả là, EU quy định có thể áp một khoản thuế CBPG để bù lại khoản thuế đáng nhẽ nhà nhập khẩu phải trả nhưng trên thực tế lại không phải trả do nhà xuất khẩu đã hạ giá bán. Do đó, biên độ phá giá có thể được tính toán lại để áp thuế CBPG bổ sung.

Mối quan hệ giữa Điều 12 và Điều 13 liên quan đến câu hỏi: Liệu Điều 12 có thể được áp cho các khoản thuế áp theo Điều 13. Giả sử một hoạt động gia công được bắt đầu sau khi áp thuế chống bán phá CBPG. Điều này dẫn tới một lệnh áp thuế CBPG mở rộng (biện pháp chống lẩn tránh thuế) được áp với hàng hóa lắp ráp hoặc linh kiện theo Điều 13. Nếu thuế CBPG ban đầu sau đó được hấp thu (“absorb”) bởi nhà xuất khẩu, một mức thuế CBPG bổ sung, theo Điều 12, sẽ được áp với sản phẩm. Câu hỏi sẽ được chuyển thành liệu khoản thuế CBPG được mở rộng (biện pháp chống lẩn tránh thuế) có cần tính toán lại. Có nghĩa là, liệu thuế CBPG bổ sung do hành vi absorption sẽ được áp cho sản phẩm lắp ráp hoặc linh kiện hay không. Luật pháp EU hiện tại không có hướng dẫn về vấn đề này. Quy định tương ứng không chỉ rõ là Điều 12 có nằm ngoài phạm vi Điều 13 hay không. Tuy nhiên, có ý kiến cho rằng áp dụng Điều 12 cho Điều 13 là không phù hợp. Điều này là do lệnh áp thuế CBPG mở rộng (biện pháp chống lẩn tránh thuế) được thiết kế để ngăn cản hành vi lẩn tránh và do đó không cần thiết để tính toán lại biên độ phá giá và áp một lệnh áp thuế mở rộng bổ sung (biện pháp chống lẩn tránh thuế) nếu biện pháp chống lẩn tránh thuế ban đầu là đủ để ngăn chặn lẩn tránh. Ngoài ra, 2 vấn đề thực tiễn cũng liên quan đến phần này. Thay đổi giá của sản phẩm lắp ráp chịu ảnh hưởng của rất nhiều yếu tố và hành vi absorption của nhà xuất khẩu có thể chỉ là một trong các yếu tố đó góp phần vào sự thay đổi không đủ/không thay đổi này. Một quan ngại khác là việc thiếu giá phù hợp để so sánh, do đó tính toán lại biên độ phá giá khi việc xuất khẩu toàn bộ sản phẩm đã bị thay thế bằng các linh kiện.

Giống Điều 13 (biện pháp chống lẩn tránh), Điều 12 (biện pháp chống hấp thu thuế) cũng khẳng định rằng việc thực thi luật CBPG là hiệu quả. Do đó, hành vi absorption là một loại lẩn tránh theo 1 nghĩa nào đó. Do đó, quy định về vấn đề anti-absorption nên được gộp vào biện pháp chống lẩn tránh do sự chồng chéo về trách nhiệm giữa 2 quy định này. Lập luận này có thể được ủng hộ trong trường hợp “absorb” thuế CBPG mở rộng (biện pháp chống lẩn tránh). Trong trường hợp này, (khác với trường hợp thuế CBPG bị absorb chứ không phải biện pháp chống lẩn tránh thuế bị absorb), thì quy định về anti-absorption thực chất là một biện pháp chống lẩn tránh thuế nếu Điều 12 được áp cho Điều 13.

- Một nhận xét nữa liên quan đến quy định hiện hành của EU về chống lẩn tránh thuế là không có cam kết giá. Theo quy định CBPG/CTC thông thường, 3 loại biện pháp, bao gồm biện pháp thuế tạm thời, biện pháp thuế chính thức và cam kết giá (với trợ cấp là cam kết giá hoặc cam kết loại bỏ hành vi trợ cấp) được áp để bù đắp những thiệt hại gây ra cho ngành sản xuất trong nước do hành vi phá giá/trợ cấp. Một cam kết giá do đó là một cam kết tự nguyện từ nhà xuất khẩu để thay đổi giá hoặc dừng xuất khẩu sang nước nhập khẩu với giá phá giá/giá trợ cấp. Do đó, CQĐT sẽ chấp nhận cam kết và trì hoãn hoặc chấm dứt vụ việc CBPG/CTC mà không áp biện pháp tạm thời hoặc thuế CBPG/CTC nếu đáp ứng yêu cầu rằng thiệt hại do phá giá/trợ cấp gây ra đã được loại bỏ. Theo quy định trước đây của EU vào những năm 1980, cam kết giá là một trong những biện pháp được quy định cho chống lẩn tránh thuế. Theo đó, nhà xuất khẩu có thể đề nghị cam kết giá để được miễn khỏi bị áp biện pháp chống lẩn tránh khi có dự kiến rằng sẽ có kết luận khẳng định về việc lẩn tránh thuế. Tuy nhiên quy định hiện hành lại không có quy định về cam kết giá như là một biện pháp khắc phục cho hành vi lẩn tránh.

e. So sánh giữa điều tra chống bán phá giá/chống trợ cấp và điều tra chống lẩn tránh thuế chống bán phá giá/chống trợ cấp của EU

Bảng 2. So sánh điều tra CBPG/CTC và Chống lẩn tránh thuế CBPG/CTC

 

Điều tra CBPG/CTC

Điều tra Chống lẩn tránh thuế CBPG/CTC

Nguyên đơn

Đơn kiện được nộp bởi hoặc nhân danh ngành sản xuất nội địa (tức là một số lượng đa số các doanh nghiệp sản xuất sản phẩm tương tự của EU)

Không có yêu cầu tương tự

Yêu cầu về mức độ bằng chứng để khởi xướng điều tra

Có bằng chứng ban đầu về phá giá/trợ cấp và thiệt hại

Trong trường hợp đơn yêu cầu có đủ chứng cứ về các yếu tố được quy định tại Điều 13(1) Luật chống bán phá giá hoặc Điều 23 (1)-(3) Luật chống trợ cấp

Đăng ký nhập khẩu

Không phải đăng ký nhập khẩu khi khởi xướng điều tra

Việc khởi xướng điều tra  tự động đi kèm với đăng ký nhập khẩu

Thời hạn điều tra

Trong vòng 15 tháng kể từ ngày khởi xướng

Trong vòng 9 tháng kể từ ngày khởi xướng

Lợi ích của EU

Cần phải xem xét khi quyết định áp dụng biện pháp

Không cần xem xét

Thuế tạm thời

Có thể có

Không có

Kết quả

Hoặc thuế CBPG/CTC được áp hoặc cuộc điều tra kết thúc

Hoặc thuế CBPG/CTC đang áp được mở rộng hoặc cuộc điều tra kết thúc nhưng thuế CBPG/CTC đang áp vẫn có hiệu lực như cũ

Bắt đầu áp thuế

Sau khi quyết định được ban hành

Thuế CBPG/CTC được mở rộng và truy thu kể từ ngày khởi xướng điều tra

Các kết quả/tác động của cuộc điều tra chống lẩn tránh thuế của EC

Một cuộc điều tra chống lẩn tránh thuế của EC có thể dẫn đến các kết quả như sau:

- Hoặc mức thuế CBPG/CTC hiện tại được áp kèm theo truy thu thuế kể từ ngày khởi xướng điều tra (có loại trừ dành cho các nhà xuất khẩu và nhập khẩu đủ điều kiện hưởng loại trừ), hoặc cuộc điều tra kết thúc nhưng thuế CBPG/CTC đang áp vẫn tiếp tục có hiệu lực.

- Mở rộng biện pháp CBPG/CTC với hàng nhập khẩu từ các nước khác hoặc các sản phẩm khác từ cùng một nước.

- Mức thuế dành cho “các nhà sản xuất khác” của biện pháp ban đầu (CBPG/CTC) được áp.

- Việc mở rộng áp thuế sẽ được áp cho đến khi biện pháp CBPG/CTC ban đầu vẫn đang có hiệu lực.

- Thuế CBPG/CTC đang áp với nước bị điều tra trong vụ việc ban đầu sẽ được mở rộng (kể từ thời điểm đăng ký nhập khẩu) cho các nước khác hoặc các sản phẩm khác được kết luận là có lẩn tránh thuế. Đặc biệt, kết quả này có thể khơi mào cuộc điều tra xuất xứ hàng hóa của Cơ quan chống gian lận châu Âu (Office européen de Lutte AntiFraud- OLAF) (sẽ phân tích dưới đây) (cho giai đoạn 3 năm trước đó). Tuy nhiên, các nhà sản xuất có thể được loại trừ khỏi biện pháp mở rộng áp thuế chống lẩn tránh thuế trên cơ sở kết luận của EC.


[1] Tức là phải đáp ứng tiêu chí nhất định về tỷ lệ sản lượng sản xuất bởi bên yêu cầu (bên đứng đơn) so với tổng lượng sản xuất của cả ngành để được coi là có tính đại diện cho ngành sản xuất.

[2] Điều 9.5 ADA: Nếu một sản phẩm phải chịu thuế chống bán phá giá tại một Thành viên nhập khẩu, các cơ quan có thẩm quyền phải nhanh chóng tiến hành rà soát để xác định biên độ phá giá cho từng trường hợp đối với những nhà xuất khẩu hoặc nhà sản xuất của nước xuất khẩu mà đã không tiến hành xuất khẩu hàng hóa đó sang Thành viên nhập khẩu vào thời gian tiến hành điều tra với điều kiện là các nhà xuất khẩu hoặc nhà sản xuất này phải chứng minh được rằng mình không có liên hệ gì với các nhà sản xuất và nhà xuất khẩu của nước xuất khẩu đang phải chịu lệnh áp thuế chống bán phá giá. Việc rà soát nói trên phải được tiến hành trên cơ sở khẩn trương hơn so với thủ tục áp thuế thông thường và các thủ tục rà soát tại Thành viên nhập khẩu. Không được phép đánh thuế chống bán phá giá đối với các nhà xuất khẩu hoặc nhà sản xuất đang thuộc diện rà soát. Tuy nhiên các cơ quan có thẩm quyền có quyền giữ mức định thuế và/hoặc yêu cầu bảo lãnh để có thể đảm bảo được rằng nếu như việc rà soát đưa đến kết quả là phải đánh thuế đối với các nhà xuất khẩu hoặc nhà sản xuất này thì thuế chống bán phá giá đó có thể được thu trên cơ sở hồi tố tính từ ngày bắt đầu việc rà soát.

Điều 10.6 ADA: Mức thuế chống phá giá chính thức có thể được áp dụng đối với các sản phẩm được nhập khẩu để tiêu dùng trong thời gian không quá 90 ngày trước khi áp dụng các biện pháp tạm thời, khi các cơ quan có thẩm quyền xác định sản phẩm bị bán phá giá sẽ căn cứ vào:

(i) đã có lịch sử bán phá giá gây thiệt hại hoặc người nhập khẩu đã biết hoặc đáng lẽ phải biết rằng người xuất khẩu đang bán phá giá và việc bán phá giá này sẽ gây thiệt hại, và 

(ii) thiệt hại do bán phá giá hàng loạt đối với một sản phẩm trong thời gian tương đối ngắn, nếu xét về thời gian cũng như khối lượng hàng nhập khẩu được bán phá giá và các tình huống khác (như sự gia tăng nhanh chóng lượng hàng nhập khẩu trong kho) có thể làm giảm một cách nghiêm trọng hiệu quả điều chỉnh của thuế chống phá giá sẽ được áp dụng, với điều kiện là các nhà nhập khẩu có liên quan đã có cơ hội để phản biện. 

Điều 10.7 ADA: Các cơ quan có thẩm quyền có thể, sau khi khởi xướng điều tra, có các biện pháp chẳng hạn như tạm thời ngừng việc định giá, áp thuế chính thức tuỳ theo yêu cầu cần thiết để thu thuế chống phá giá hồi tố, theo quy định tại khoản 6, khi các cơ quan này đã có đủ bằng chứng rằng các điều kiện được đưa ra tại khoản này đã được đáp ứng.

Điều 20.6 SCMA: Trong những hoàn cảnh đặc biệt khi đối với hàng hóa trợ cấp liên quan, cơ quan có thẩm quyền thấy rằng thiệt hại là khó có thể khắc phục được do nhập khẩu với khối lượng lớn trong một thời gian ngắn sản phẩm đã được trợ cấp không phù hợp các quy định của GATT 1994 và của Hiệp định này và thấy cần thiết để ngăn ngừa tình trạng đó tái diễn, thì cơ quan có thẩm quyền có thể tính hồi tố thuế đối kháng đối với hàng nhập khẩu này, thuế đối kháng chính thức có thể được tính đối với hàng nhập khẩu đã đưa vào tiêu dùng trước đó nhưng không quá 90 ngày kể từ ngày bắt đầu áp dụng biện pháp tạm thời.

Tin tức khác