Nghiên cứu quy định về khái niệm chuyển quỹ trực tiếp của Hiệp định SCM

Điều 1.1(a)(1) Hiệp định về Trợ cấp và các biện pháp đối kháng WTO (SCM) quy định trợ cấp trong thương mại quốc tế tồn tại nếu:

          - Có sự đóng góp về tài chính của chính phủ hoặc một tổ chức công trên lãnh thổ của một Thành viên (theo Hiệp định này sau đây gọi chung là “chính phủ”) khi:
            (i) Hành vi của chính phủ (government practice) thực tế có chuyển quỹ trực tiếp (direct transfer of funds) (ví dụ như tài trợ- grants, cho vay, hay góp cổ phần- equity infusion), có khả năng chuyển quỹ hoặc nhận nợ trực tiếp (potential direct transfers of funds or liablilities) (như bảo lãnh tiền vay);.....

          Bài nghiên cứu dưới đây sẽ tập trung phân tích khái niệm “direct transfer of funds” và một số khái niệm liên quan theo các kết luận của Cơ quan giải quyết tranh chấp WTO trong các vụ việc liên quan.

  1. Hành vi của chính phủ

Thuật ngữ “chính phủ” bao gồm cả “chính phủ và “tổ chức công” nên cụm từ “hành vi của chính phủ” nói đến hành vi của cả chính phủ và tổ chức công vì vậy không nhất thiết chỉ hoàn toàn mang nghĩa hẹp liên quan đến các hành vi như quy định (regulation) hoặc ban hành thuế (taxation).  Cụm từ “hành vi của chính phủ” được sử dụng để biểu thị người thực hiện hành động, thay vì bản chất của hành động và do đó "hành vi của chính phủ" bao gồm tất cả các hành vi của chính phủ hoặc tổ chức công, bất kể có liên quan đến việc thực hiện các quyền ra quy định hay thẩm quyền thuế".[1]

2. “Chuyển quỹ trực tiếp”

 Thuật ngữ "chuyển quỹ trực tiếp" thể hiện "hành vi của chính phủ mà tiền, nguồn tài chính và/hoặc các quyền tài chính (claims) được cung cấp cho người nhận"[2]. Ý nghĩa của "quỹ" (funds) không chỉ bao gồm tiền, mà còn cả nguồn tài chính và các yêu cầu tài chính khác (financial claims) nói chung[3]. "... việc chuyển quỹ trực tiếp thông thường sẽ liên quan đến việc chính phủ tài trợ (finance) cho người nhận. Trong một số trường hợp, như tài trợ (grants), việc chuyển quỹ sẽ không liên quan đến nghĩa vụ đối ứng về phía người nhận. Trong các trường hợp khác, như các khoản vay và rót vốn, người nhận có nghĩa vụ với chính phủ để đổi lấy các khoản tiền được cung cấp. Do đó, việc cung cấp quỹ có thể tương đương với một khoản viện trợ (donation) hoặc có thể liên quan đến các quyền và nghĩa vụ đối ứng"[4].

Ngoài ra, mặc dù việc một số khoản giải ngân được dự kiến ​​theo các hợp đồng có liên quan chưa được thực hiện thì vẫn có thể kết luận rằng các biện pháp liên quan ​​thuộc phạm vi của chuyển quỹ trực tiếp.[5]

Bên cạnh đó, các giao dịch liên quan đến hoán đổi nợ lấy vốn chủ sở hữu (debt-for-equity swaps) và việc sửa đổi các điều khoản hoàn trả khoản vay (giảm và hoãn trả lãi vay) cũng là khoản đóng góp tài chính (thuộc phạm vi điều chỉnh của Điều 1.1(a)(1)(i)) mặc dù không liên quan đến bất kỳ chuyển nhượng quỹ (mới) nào, 'không có sự chuyển giao giá trị tiền tệ'. "Theo nghĩa của Điều 1.1(a)(1)(i), tồn tại khoản đóng góp tài chính nếu có 'chuyển quỹ trực tiếp' và các khoản tài trợ, cho vay và chuyển vốn cổ phần chỉ được liệt kê là ba ví dụ có thể có của việc chuyển giao như vậy. Do đó, các tiểu đoạn tương ứng của Điều 1.1(a)(1) xác định các loại công cụ hoặc giao dịch có thể được coi là 'đóng góp tài chính'. Những công cụ này sẽ chỉ được điều chỉnh trong Hiệp định SCM nếu được thực hiện bởi 'bởi chính phủ hoặc tổ chức công' và chúng chỉ là những khoản trợ cấp được quy định trong Hiệp định nếu đều mang lại lợi ích và có tính cụ thể. Do đó, khái niệm đóng góp tài chính chỉ là một trong tập hợp các yếu tố tổng hợp và độc lập, để một biện pháp trợ cấp thuộc phạm vi điều chỉnh của Hiệp định SCM thì phải đảm bảo cả 3 yêu cầu (đóng góp tài chính, mang lại lợi ích, có tính cụ thể). Việc từ bỏ và sửa đổi các nghĩa vụ vốn có trong các giao dịch như vậy cũng dẫn đến kết quả là các quyền hoặc nghĩa vụ mới, được chuyển giao cho con nợ cũ.' Giao dịch hoán đổi nợ trên vốn chủ sở hữu thay thế nợ bằng vốn chủ sở hữu, và trong trường hợp như vậy, khi hoán đổi nợ trên vốn chủ sở hữu nhằm giải quyết tình trạng tài chính xấu đi của công ty tiếp nhận, việc hủy bỏ khoản nợ tương ứng với việc chuyển trực tiếp quỹ cho công ty.[6]

Các ví dụ được liệt kê trong Điều 1.1(a)(1)(i) làm sáng tỏ phạm vi của thuật ngữ 'chuyển quỹ trực tiếp'. Quan trọng nhất là khi xem xét 'phương tiện trao đổi' trong các ví dụ được liệt kê, có thể thấy rằng tất cả các ví dụ đều liên quan đến chuyển tiền ('quỹ'), trái ngược với chuyển khoản bằng hiện vật (in-kind transfer) (hàng hóa hoặc dịch vụ, theo nghĩa của Điều 1.1(a)(1)(iii)). Thực tế là các loại chuyển tiền trực tiếp được liệt kê (tài trợ, cho vay và chuyển vốn cổ phần) chỉ được coi là những ví dụ rõ ràng để chỉ ra rằng có thể có các loại công cụ khác cũng sẽ cấu thành chuyển quỹ trực tiếp theo nghĩa của Điều 1.1( a)(1)(i).

Chuyển sang các trường hợp cụ thể của các giao dịch liên quan đến việc tái cấu trúc như phân tích dưới đây, tất cả chúng đều có cùng bản chất với các giao dịch được liệt kê rõ ràng trong Điều 1.1(a)(1)(i). Trước tiên, việc giảm và hoãn lãi suất cũng tương tự như các khoản vay mới, vì chúng liên quan đến việc thương lượng lại/gia hạn các điều khoản của khoản vay ban đầu. Hơn nữa, việc xóa nợ/lãi suất tương ứng với một khoản tài trợ tiền mặt, vì các khoản tiền trước đây được cung cấp dưới dạng cho vay, phải trả lãi suất, hiện được cung cấp miễn phí, vì được xóa bỏ nghĩa vụ trả nợ. Do đó, tất cả các giao dịch này cấu thành việc chuyển quỹ trực tiếp. Về giao dịch hoán đổi nợ lấy vốn chủ sở hữu, có thể thấy việc chuyển vốn cổ phần được liệt kê rõ ràng là một loại chuyển quỹ trực tiếp tại Điều 1.1(a)(1)(i). Vì việc xóa nợ cấu thành hành vi chuyển quỹ trực tiếp, nên sự kết hợp giữa rót vốn chủ sở hữu và xóa nợ cũng thuộc phạm vi điều chỉnh của điều khoản đó. Lý do tại sao các chủ nợ đồng ý với các giao dịch đó không liên quan đến vấn đề liệu các giao dịch đó có cấu thành đóng góp tài chính hay không mà liên quan đến vấn đề lợi ích (theo nghĩa là liệu các chủ nợ hoạt động theo nguyên tắc thị trường có thực hiện các giao dịch như vậy với các điều khoản tương tự hay không). ... ... Việc rót vốn chủ sở hữu và hoán đổi nợ lấy vốn chủ sở hữu có cùng tác động, theo nghĩa vốn chủ sở hữu được thay đổi chủ (và trợ cấp phát sinh nếu tỷ lệ hoán đổi thấp hơn so với thị trường). Ngoài ra, hoán đổi nợ với vốn chủ sở hữu bao gồm một yếu tố của rót vốn chủ sở hữu."

Việc từ bỏ hoặc sửa đổi các khoản vay (claims), trong một số trường hợp nhất định, được coi là việc chuyển sang các khoản vay mới, làm phát sinh các quyền và nghĩa vụ mới[7]. Ví dụ: việc sửa đổi khoản vay hiện tại có thể được coi là việc chuyển giao các quyền mới cho người nhận khoản vay đã sửa đổi. Các quyền cũ của người đi vay không còn tồn tại nữa, được thay thế bằng các quyền mới. Theo nghĩa này, khoản vay đã sửa đổi có thể được coi như một khoản vay mới. Do đó, việc sửa đổi khoản vay thông qua xóa nợ liên quan đến việc chuyển giao các quyền mới cho người đi vay, người hiện được giải phóng nghĩa vụ trả nợ và thay vào đó có quyền sử dụng tiền miễn phí. Tương tự, việc sửa đổi một khoản vay thông qua kéo dài thời gian đáo hạn khoản vay liên quan đến việc chuyển giao các quyền mới cho người đi vay, người hiện được quyền vay tiền trong một thời gian dài hơn. Do các quyền mới được chuyển giao trong các giao dịch như vậy có giá trị tiền tệ và có thể được tính bằng vốn của một người,,các giao dịch đó có thể được coi là 'chuyển quỹ trực tiếp'. Cần nhìn xa hơn hình thức đơn giản của một giao dịch và phân tích ảnh hưởng của nó khi xác định xem liệu một giao dịch có cấu thành 'chuyển quỹ trực tiếp' hay không. Cơ quan Phúc thẩm giữ nguyên kết luận của Ban Hội thẩm và lập luận rằng:

Khái niệm 'chuyển quỹ' không nên áp dụng quá theo nghĩa đen và máy móc nếu không sẽ không cho thấy các giao dịch tài chính dẫn tới việc thay đổi các nghĩa vụ mà từ đó dẫn tới kết quả tích lũy các nguồn tài chính. Việc chuyển quỹ trực tiếp, như được đề cập trong Điều 1.1(a)(1)(i), không bị giới hạn trong các tình huống có một dòng quỹ tăng dần cho người nhận mà nâng cao giá trị ròng của người nhận. Do đó, việc sửa đổi các điều khoản của các khoản vay đã có từ trước ..... là chuyển quỹ trực tiếp. Các từ 'tài trợ, cho vay và rót vốn cổ phần' đứng sau từ 'ví dụ', điều này cho thấy rằng các khoản tài trợ, cho vay và rót vốn cổ phần là những ví dụ được trích dẫn về các giao dịch thuộc phạm vi của Điều 1.1(a)(1)(i). Điều này cho thấy rằng các giao dịch tương tự như các giao dịch được liệt kê rõ ràng cũng nằm trong phạm vi của điều khoản. Việc xóa nợ là một hình thức mà người vay thực hiện để hoàn trả (repay) khoản vay cho người cho vay. Việc kéo dài thời gian đáo hạn khoản vay giúp người đi vay được hưởng lợi ích của khoản vay trong một thời gian kéo dài. Việc giảm lãi vay làm giảm gánh nặng trả nợ của người đi vay. Trong tất cả các trường hợp này, tình hình tài chính của người đi vay được cải thiện và do đó có sự chuyển quỹ trực tiếp”[8].

Tương tự, việc chuyển nhượng cổ phiếu cũng thuộc phạm vi "chuyển quỹ trực tiếp". Việc chuyển cổ phiếu là khoản ‘đóng góp tài chính' vì cổ phiếu trong một công ty là các quyền về tài chính đối với dòng thu nhập (dưới dạng cổ tức được trả từ lợi nhuận của công ty) và là một phần vốn của công ty khi thanh lý. Do đó, cổ phiếu trong một công ty nằm trong phạm vi của thuật ngữ 'quỹ' tại Điều 1.1(a)(1)(i) và việc chuyển nhượng cổ phiếu nằm trong phạm vi của điều khoản 'chuyển quỹ trực tiếp'."[9]

Ngoài ra, việc từ bỏ khoản nợ (xoá nợ) do chính phủ nắm giữ cũng có thể cấu thành "chuyển quỹ trực tiếp": Việc xoá nợ cấu thành một khoản đóng góp tài chính dưới hình thức 'chuyển quỹ trực tiếp' vì nợ chính phủ là tài sản do chính phủ nắm giữ bao gồm các quyền tài chính nhất định (nghĩa là quyền được nhận tiền hoặc các khoản tương đương) mà chính phủ có đối với con nợ. Việc xử lý nợ do chính phủ nắm giữ về cơ bản liên quan đến việc chuyển cho con nợ các quyền tài chính của chính phủ đối với con nợ đó, dẫn đến việc hủy bỏ khoản nợ.[10]

Trong vụ Hoa Kỳ- Máy bay dân dụng cỡ lớn (khiếu kiện lần 2), trong một kết luận mà Cơ quan Phúc thẩm sau đó tuyên bố là không có hiệu lực pháp lý, Ban Hội thẩm tuyên bố rằng các giao dịch liên quan đến việc mua dịch vụ được loại trừ khỏi phạm vi của Điều 1.1(a)(1). Ban Hội thẩm công nhận rằng nghĩa đơn giản của "chuyển quỹ" là rất rộng, nhưng cho rằng cần phải diễn giải các điều khoản của Điều 1.1(a)(1)(i) trong ngữ cảnh:

“Điều 1.1(a)(1)(i) quy định rằng một khoản đóng góp tài chính tồn tại khi ‘hành vi của chính phủ liên quan đến việc chuyển quỹ trực tiếp (ví dụ: tài trợ, cho vay và rót vốn cổ phần)'. Nếu các điều khoản của Điều 1.1(a)(1)(i) được đọc một cách riêng biệt, nghĩa thông thường của các từ 'hành vi của chính phủ liên quan đến việc chuyển quỹ trực tiếp' có thể đủ rộng để bao gồm các giao dịch mua dịch vụ. Thứ nhất, các định nghĩa từ điển của các thuật ngữ này không gợi ý rằng các giao dịch được mô tả một cách chính xác là khoản mua dịch vụ là nằm ngoài phạm vi: định nghĩa của động từ 'chuyển' là 'sự chuyển từ người này sang người khác' và định nghĩa về 'quỹ' là 'một cổ phiếu hoặc một khoản tiền, đặc biệt là được tách ra cho một mục đích cụ thể' hoặc 'nguồn tài chính'. Thứ hai, không có ngôn ngữ giới hạn trong lời văn của điều khoản này. Thứ ba, một trong những ví dụ về 'chuyển quỹ trực tiếp' nêu trong Điều 1.1(a)(1)(i) là 'rót vốn chủ sở hữu', đề cập đến tình huống trong đó chính phủ 'mua' một thứ gì đó (tức là cổ phần trong một công ty). Thứ tư, các ban hội thẩm trước đây và Cơ quan Phúc thẩm đã không đưa ra cách giải thích hạn chế đối với các thuật ngữ này. Tuy nhiên, các điều khoản của Điều 1.1 (a) (1) (i) phải được đọc trong ngữ cảnh của chúng."

Các thỏa thuận liên doanh có đủ đặc điểm chung với một trong các ví dụ ở điểm (i) (rót vốn cổ phần), và do đó nằm trong khái niệm "chuyển quỹ trực tiếp". Trong trường hợp rót vốn cổ phần, việc cung cấp vốn của chính phủ cho người nhận được thực hiện để đổi lại việc có cổ phiếu. Người cung cấp vốn do đó thực hiện việc đầu tư vào doanh nghiệp nhận đầu tư và sẽ được hưởng cổ tức hoặc bất kỳ khoản lãi vốn nào có được từ khoản đầu tư đó. Việc hoàn vốn đầu tư sẽ phụ thuộc vào sự thành công của doanh nghiệp nhận đầu tư. Tại thời điểm chính phủ cung cấp vốn, họ không biết doanh nghiệp nhận đầu tư sẽ hoạt động như thế nào. Nhà đầu tư vốn sẽ được hưởng lợi từ khoản đầu tư nếu doanh nghiệp thành công và bị lỗ nếu doanh nghiệp không thành công. Loại.giao dịch này có thể được nhân rộng thông qua các thỏa thuận khác, chẳng hạn như bằng phương thức liên doanh. [11] Trong vụ việc Hoa Kỳ- Máy bay dân dụng cỡ lớn (khiếu kiện lần 2), Cơ quan Phúc thẩm cho rằng giống như các nhà đầu tư cổ phần, NASA và USDOD cung cấp khoản tài trợ (funding) cho Boeing với kỳ vọng thu được lợi nhuận (không phải là tài chính, mà là dưới dạng thông tin khoa học và kỹ thuật, khám phá và dữ liệu dự kiến ​​là kết quả của nghiên cứu được thực hiện). Một lần nữa, giống như các nhà đầu tư cổ phần, NASA và USDOD không chắc chắn vào thời điểm họ cam kết tài trợ rằng nghiên cứu sẽ thành công hay không. Sự thành công sẽ phụ thuộc vào việc có phát minh nào được phát hiện hay không và tính hữu ích của dữ liệu thu thập được, cũng như thông tin khoa học và kỹ thuật được tạo ra. Rủi ro của NASA và USDOD được giới hạn trong số tiền họ đóng góp và chi phí cơ hội của các hỗ trợ khác mà họ cung cấp cho dự án, giống như một nhà đầu tư cổ phần. Và giống như một số nhà đầu tư cổ phần, NASA và USDOD đóng góp vào dự án bằng cách cung cấp quyền truy cập vào cơ sở vật chất, thiết bị và nhân viên.

3. "Ví dụ như: tài trợ, cho vay và rót vốn cổ phần"

Các từ 'tài trợ, cho vay và rót vốn cổ phần' đứng trước từ viết tắt 'ví dụ', chỉ ra rằng chúng được trích dẫn như là ví dụ về các giao dịch về chuyển quỹ trực tiếp thuộc phạm vi của Điều 1.1(a)(1)( i). Những ví dụ này, mang tính minh họa, không hạn chế các hành vi thuộc phạm vi điều chỉnh của điểm (i). Việc đưa vào ví dụ cụ thể sẽ đưa ra chỉ dẫn về các loại giao dịch thuộc phạm vi của ‘chuyển quỹ trực tiếp’”.[12]

- Liên quan đến "các khoản tài trợ", tiền hoặc các vật có giá trị của tiền được trao cho người nhận, thông thường mà không có nghĩa vụ hoặc kỳ vọng rằng bất cứ thứ gì sẽ được cung cấp cho người cấp để đổi lại. Các khoản tài trợ cấp có thể có nhiều hình thức. Ví dụ: một số khoản tài trợ có điều kiện yêu cầu người nhận sử dụng tiền cho một mục đích cụ thể và các khoản tài trợ có điều kiện khác yêu cầu người nhận phải tự huy động một phần quỹ cần thiết cho một dự án.[13]

Nếu công ty được hưởng lợi phải "thực hiện một số nghĩa vụ" và “chính phủ” phải bồi hoàn cho công ty này để công ty thực hiện một số nghĩa vụ thì sẽ không được coi là “khoản đóng góp tài chính”. Hai nghĩa vụ này hoạt động song song như một phần của cùng một giao dịch ngay cả khi được thực hiện tại các thời điểm khác nhau. Ví dụ, trong vụ việc Hoa Kỳ- Gỗ xẻ mềm, công ty có nghĩa vụ thực hiện các công việc lâm sinh và quản lý rừng như một điều kiện để tiếp cận gỗ, và Chính phủ có nghĩa vụ phải bồi hoàn cho công ty khi thực hiện các nghĩa vụ đó, đây không được coi là khoản đóng góp tài chính. Mặc dù có sự tách biệt về thời gian giữa việc áp dụng các nghĩa vụ lâm sinh và quản lý rừng với việc nộp đơn xin và nhận khoản bồi hoàn của công ty, cả hai đều mang tính có đi có lại trong cùng một giao dịch. Ngoài ra, mặc dù công ty có thể được phân bổ thêm gỗ được tạo ra do các hoạt động lâm sinh. Việc có thêm nguồn cung cấp gỗ, (ngay cả khi phải thanh toán phí gốc cây –stumpage fee), có thể mang lại lợi ích thương mại cho công ty. Do đó, công ty có khả năng được hưởng lợi từ việc tăng năng suất nhờ các hoạt động quản lý rừng và lâm sinh của mình dưới hình thức tiếp cận với nguồn cung gỗ tăng và có động cơ để thực hiện các hoạt động lâm sinh ngay cả khi không có khoản bồi hoàn từ chính phủ. Tuy nhiên, có khả năng là các chi phí mà công ty sẽ phải chịu trong việc thực hiện các hoạt động quản lý rừng và lâm sinh (mà không có bất kỳ khoản hoàn trả từ chính phủ) có thể vượt quá lợi thế thương mại công ty có được dưới hình thức gia tăng nguồn cung (là kết quả của hoạt động lâm sinh và quản lý rừng). Do đó, đối với công ty, có thể không có lợi ích về thương mại khi thực hiện công tác lâm sinh và quản lý rừng mà không được hoàn trả. Vì vậy, đây không được coi là khoản đóng góp tài chính.

- "Các khoản cho vay" và "rót vốn góp" có đặc điểm là có đi có lại: "Với một khoản vay, người cho vay sẽ cho vay số tiền hoặc giá trị của khoản tiền trên cơ sở là khoản tiền gốc sẽ được hoàn trả cùng với lãi suất theo thỏa thuận (người cho vay thường sẽ thu được lợi nhuận từ số tiền đã vay). Trong trường hợp rót vốn chủ sở hữu, việc cung cấp vốn của chính phủ cho người nhận được thực hiện để đổi lại việc mua lại cổ phiếu. Người cung cấp vốn do đó thực hiện đầu tư vào doanh nghiệp nhận và sẽ được hưởng cổ tức hoặc bất kỳ khoản lợi nhuận vốn nào có được từ khoản đầu tư đó. Lợi nhuận từ khoản đầu tư sẽ phụ thuộc vào sự thành công của doanh nghiệp nhận đầu tư. Tại thời điểm chính phủ cung cấp vốn, họ không biết doanh nghiệp nhận đầu tư sẽ hoạt động như thế nào. Nhà đầu tư vốn sẽ được hưởng lợi nhuận từ vốn của mình nếu doanh nghiệp thành công và bị lỗ nếu doanh nghiệp thất bại."[14]

4. "Các khoản chuyển quỹ trực tiếp tiềm năng" (potential direct transfers of funds)

Không phải khi việc chuyển quỹ đã thực sự có hiệu lực thì mới tồn tại trợ cấp[15]: "Theo Điều 1:1(i) trợ cấp tồn tại nếu hành vi của chính phủ liên quan đến việc chuyển quỹ trực tiếp hoặc khả năng chuyển quỹ trực tiếp và không chỉ khi chính phủ thực sự thực hiện việc chuyển quỹ hoặc chuyển quỹ tiềm năng đó (nếu không lời văn của điểm (i) sẽ là: 'chính phủ trực tiếp chuyển quỹ ... hoặc tham gia vào việc chuyển quỹ trực tiếp tiềm năng hoặc các khoản nợ') ... Ngay sau khi chính phủ có hành vi như vậy là đã tồn tại trợ cấp và câu hỏi liệu hành vi có liên quan đến việc chuyển quỹ trực tiếp hoặc khả năng chuyển quỹ trực tiếp hay không không liên quan đến sự tồn tại của trợ cấp. Nếu trợ cấp được coi là chỉ tồn tại khi việc chuyển quỹ trực tiếp hoặc tiềm năng đã thực sự có hiệu lực, điều này sẽ khiến Hiệp định sẽ hoàn toàn không có ý nghĩa và ngay cả biện pháp khắc phục thông thường của WTO (tức là chấm dứt vi phạm) sẽ không thể thực hiện được.".

Khái niệm "khả năng chuyển quỹ trực tiếp": "Việc định nghĩa 'khoản bảo lãnh tiền vay' như là một ví dụ về 'khả năng chuyển quỹ trực tiếp hoặc nợ phải trả" giúp chúng ta hiểu được các loại biện pháp có thể cấu thành "khả năng chuyển quỹ trực tiếp hoặc nợ phải trả". Bảo lãnh khoản vay là một lời hứa ràng buộc về mặt pháp lý để hoàn trả số dư chưa thanh toán của một khoản vay khi người nhận khoản vay không trả được nợ. Do đó, lời hứa sẽ hoàn trả một khoản nợ chưa thanh toán trong trường hợp vỡ nợ là khoản đóng góp tài chính (tức là khả năng sẽ chuyển quỹ trực tiếp), không phải là số tiền có thể được chuyển trong tương lai trong trường hợp vỡ nợ. ...[16]

Việc bảo lãnh khoản vay sẽ mang lại lợi ích cho người nhận khi nó cho phép người nhận đó có được khoản vay được đảm bảo với mức giá thấp hơn thị trường ngụ ý rằng lợi ích của khả năng chuyển quỹ trực tiếp phát sinh từ sự tồn tại của một nghĩa vụ chuyển tiền trực tiếp trong trường hợp vỡ nợ. Do đó, khi đánh giá xem liệu một giao dịch có liên quan đến 'khả năng chuyển quỹ trực tiếp’ hay không, cần tập trung vào sự tồn tại của hành vi của chính phủ liên quan đến nghĩa vụ thực hiện chuyển quỹ trực tiếp mà bản thân nó được yêu cầu và có khả năng mang lại lợi ích cho người nhận, tách biệt và độc lập với lợi ích có thể được trao từ bất kỳ lần chuyển tiền nào trong tương lai. Điều này có thể trái ngược với đóng góp tài chính dưới hình thức chuyển quỹ trực tiếp, mà sẽ dẫn đến lợi ích được trao cho người nhận khi có hành vi của chính phủ liên quan đến việc chuyển quỹ trực tiếp.

Cam kết tài trợ nhưng không giải ngân có thể là một khoản 'đóng góp tài chính' nếu dưới hình thức 'khả năng chuyển quỹ trực tiếp'. Cũng giống như việc giải ngân tiền là 'chuyển quỹ trực tiếp', một cam kết - hoặc một lời hứa - giải ngân tiền có thể được coi là 'khả năng chuyển quỹ trực tiếp theo định nghĩa về 'khoản đóng góp tài chính' tại Điều 1.1(a)(1)(i)."[17]

Một câu hỏi phát sinh là liệu chỉ tồn tại "khả năng chuyển quỹ trực tiếp" khi yêu cầu phải có chuyển quỹ trực tiếp nếu xảy ra "sự kiện kích hoạt" hoặc điều kiện nào đó, hoặc liệu khả năng chuyển quỹ trực tiếp có thể tồn tại khi nó là một trong số các hậu quả có thể xảy ra sau khi thực hiện một điều kiện xác định trước (pre-defined condition) hay không. Câu trả lời là nếu chỉ "đơn thuần có khả năng là chính phủ có thể chuyển quỹ" khi thực hiện một điều kiện xác định trước thì  không đủ để đáp ứng định nghĩa về đóng góp tài chính."Định nghĩa 'tiềm năng' (potential) là 'có thể xảy ra trái ngược với thực tế, có khả năng hiện hữu hoặc hành động; tiềm ẩn'. Bảo lãnh khoản vay là một cam kết của chính phủ về việc chịu trách nhiệm đối với khoản vay khi một số trường hợp phát sinh. Do đó, ví dụ được đưa ra trong Điều 1.1(a)(1)(i) (bảo lãnh khoản vay) gợi ý rằng khả năng chính phủ có thể chuyển quỹ khi thực hiện một điều kiện xác định trước sẽ không đủ để đáp ứng định nghĩa về đóng góp tài chính. Khả năng chuyển quỹ trực tiếp là một 'khả năng xảy ra' do tính không chắc chắn về việc liệu sự kiện kích hoạt có xảy ra hay không, hơn là sự không chắc chắn về việc liệu có chuyển quỹ hay không sau khi sự kiện được xác định trước đã xảy ra”.[18]


[1] Hàn Quốc - Các tàu thương mại, Ban Hội thẩm.

[2] Hoa Kỳ - Máy bay Dân dụng cỡ lớn (khiếu nại lần 2), Cơ quan Phúc thẩm.

[3] Nhật Bản - DRAMs (Hàn Quốc), Cơ quan Phúc thẩm.

[4] Hoa Kỳ - Máy bay Dân dụng cỡ lớn (khiếu nại lần 2), Cơ quan Phúc thẩm.

[5] Vụ EC và một số thành viên- Máy bay dân dụng cỡ lớn (Điều 21.5- Hoa Kỳ), Ban Hội thẩm tuân thủ.

[6] Hàn Quốc - Các tàu thương mại, Ban Hội thẩm.

[7] Nhật Bản - DRAMs (Hàn Quốc), Ban Hội thẩm.

[8] Nhật Bản - DRAMs (Hàn Quốc), Cơ quan Phúc thẩm.

[9] EC và một số Thành viên- Máy bay dân dụng cỡ lớn, Ban Hội thẩm.

[10] EC và một số Thành viên- Máy bay dân dụng cỡ lớn, Ban Hội thẩm.

[11] Hoa Kỳ- Máy bay dân dụng cỡ lớn (khiếu kiện lần 2), Cơ quan Phúc thẩm.

[12] Nhật Bản - DRAMs (Hàn Quốc) và vụ Hoa Kỳ - Máy bay dân dụng cỡ lớn (khiếu nại lần 2), Cơ quan Phúc thẩm.

[13] Hoa Kỳ - Gỗ xẻ mềm VII, Ban Hội thẩm.

[14] Hoa Kỳ - Máy bay dân dụng cỡ lớn (khiếu nại lần 2), Cơ quan Phúc thẩm.

[15] Brazil - Máy bay, Ban Hội thẩm.

[16] EC và một số quốc gia thành viên - Máy bay dân dụng cỡ lớn, Ban hội thẩm

[17] EC và một số quốc gia thành viên - Máy bay dân dụng cỡ lớn.

[18] Hoa Kỳ- Máy bay dân dụng cỡ lớn (khiếu kiện lần 2), Ban Hội thẩm.

Tin tức khác